Luan Van EMBA Le Thi Thanh Hue

July 21, 2016 | Author: ROYAL | Category: Types, School Work
Share Embed Donate


Short Description

Luan Van EMBA Le Thi Thanh Hue...

Description

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH

Hình ảnh Thương hiệu Đại học Thủy Lợi đối với học sinh cấp III tại Hà Nội

Họ tên học viên:

Lê Thị Thanh Huệ

Giảng viên hướng dẫn 1:

TS. Doãn Hoàng Minh

Giảng viên hướng dẫn 2:

TS. James Cho

HÀ NỘI, 2012

TÓM TẮT Đại học Thủy Lợi là một trong những trường đại học công lập đầu tiên ở Việt Nam nhìn nhận tầm quan trọng của thương hiệu trong giáo dục đại học. Điều này được thể hiện qua mục tiêu chiến lược đã được công bố của trường là xây dựng uy tín cho thương hiệu “Đại học Thủy Lợi” và lọt vào top 10 trường đại học có chất lược đào tạo nhân lực và nghiên cứu khoa học tốt nhất Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế hiện nay ĐHTL lại nằm trong những trường đại học thủ đô thu hút rất ít các sinh viên giỏi, đặc biệt là những sinh viên ở Hà Nội, đối tượng có thể giúp nâng cao mặt bằng chất lượng của sinh viên tại trường và qua đó thúc đẩy chất lượng dạy và học cũng như uy tín của trường. Do đó, đề tài “Hình ảnh Thương hiệu Đại học Thủy Lợi đối với học sinh cấp III tại Hà Nội” đặt mục tiêu nghiên cứu là tìm hiểu những cảm nhận của học sinh cấp III về thương hiệu Đại học Thủy Lợi, sử dụng phương pháp do Keller đưa ra trong mô hình CBBE, với hi vọng sẽ phần nào nắm bắt được những nguyên nhân khiến ĐHTL không thu hút được sinh viên ở Hà Nội. Nghiên cứu được thực hiện trong hai giai đoạn. Trong Giai đoạn 1, 20 sinh viên ĐHTL, 20 học sinh cấp III ở Hà Nội và 20 phụ huynh học sinh cấp III được phỏng vấn, nhằm xác định những liên tưởng thương hiệu có thể gắn với ĐHTL. Trong Giai đoạn 2, học sinh tại 5 trường cấp III tại Hà Nội được khảo sát nhằm đánh giá sức mạnh, tầm quan trọng và tính độc đáo của các liên tưởng thương hiệu đã thu thập được trong giai đoạn 1 và thu thập được 277 phiếu trả lời có giá trị. Kết quả phân tích cho thấy hình ảnh thương hiệu ĐHTL theo cảm nhận của học sinh cấp III tại Hà Nội là chưa tốt, thể hiện qua những liên tưởng chưa đủ mạnh, chưa đủ quan trọng và hầu như không độc đáo về thương hiệu của trường trong tâm trí của đối tượng này. Sức mạnh của những liên tưởng gắn liền với thương hiệu ĐHTL chỉ dao động từ yếu đến khá mạnh, nhưng những liên tưởng mạnh nhất lại hầu như không có ý nghĩa quan trọng đối với đối tượng học sinh cấp III tại Hà Nội, đồng thời trường cũng chưa tạo ra được một liên tưởng độc đáo thật sự nào để phân biệt mình với những trường đại học khác cùng thành phố. Ngoài ra, có một số liên tưởng khá tiêu cực gắn với thương hiệu ĐHTL, ảnh hưởng bất lợi đến hình ảnh của trường trong mắt học sinh cấp III, góp phần giải thích sự thiếu hấp dẫn của trường đối với đối tượng này. Một số đề xuất được được đưa ra nhằm cải thiện hình ảnh thương hiệu ĐHTL trong cộng đồng học sinh cấp III tại Hà Nội. i

LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn hai giáo viên hướng dẫn của tôi là TS. Doãn Hoàng Minh và TS. James Cho đã kiên nhẫn giúp đỡ tôi xuyên suốt quá trình thực hiện bài luận văn này. Nếu không có sự chỉ dẫn, động viên và hỗ trợ nhiệt tình của họ, tôi chắc chắn đã không thể hoàn thành được luận văn này. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Thầy Tô Tuấn Anh và Khoa Quốc Tế trường Đại học Quốc Gia Hà Nội, cũng như Trường Đại học Long Hoa đã hỗ trợ kịp thời, chu đáo và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi có thể đạt được hiệu quả cao nhất trong quá trình thực hiện luận văn. Ngoài ra, tôi cũng rất biết ơn các đồng nghiệp của tôi tại trường Đại học Thủy Lợi vì sự giúp đỡ nhiệt tình và những lời động viên quý giá của họ khi tôi gặp khó khăn trong khi viết luận văn này. Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình và bạn bè của tôi, những người luôn ở bên tôi giúp tôi tự tin hơn và quyết tâm hoàn thành luận văn này.

ii

MỤC LỤC Tóm tắt...............................................................................................................................i Lời cảm ơn........................................................................................................................ii Mục lục.............................................................................................................................iii Danh sách bảng..................................................................................................................v Danh sách hình..................................................................................................................v Từ viết tắt..........................................................................................................................v CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU...............................................................................................1 1.1 Bối cảnh chung và cơ sở xây dựng đề tài.............................................................1 1.1.1

Tầm quan trọng của thương hiệu đối với trường đại học..............................1

1.1.2

Tập trung nghiên cứu hình ảnh thương hiệu.................................................3

1.1.3

Ý nghĩa của việc chọn phạm vi nghiên cứu là học sinh cấp III tại Hà Nội...4

1.2 Mục tiêu nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu........................................................5 1.2.1

Mục tiêu và các câu hỏi nghiên cứu..............................................................5

1.2.2

Phạm vi nghiên cứu.......................................................................................5

1.3 Kết cấu của báo cáo luận văn...............................................................................6 CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU...........................................................................7 2.1 Thương hiệu..........................................................................................................7 2.1.1

Định nghĩa về thương hiệu............................................................................7

2.1.2

Tài sản thương hiệu.......................................................................................8

2.2 Mô hình CBBE của Keller....................................................................................9 2.3 Hình ảnh thương hiệu và phương pháp đánh giá theo mô hình CBBE..............13 2.3.1

Liên tưởng thương hiệu và phân loại liên tưởng thương hiệu.....................13

2.3.2

Ba tiêu chí đánh giá hình ảnh thương hiệu..................................................15

2.3.3

Phương pháp đánh giá hình ảnh thương hiệu..............................................17

2.4 Vấn đề thương hiệu đối với các trường đại học..................................................19 2.4.1

Thương mại hóa giáo dục đại học...............................................................19

2.4.2

Thương hiệu đại học....................................................................................20

2.5 Vấn đề thương hiệu đại học tại Việt Nam...........................................................23 2.6 Đại học Thủy Lợi................................................................................................26 2.6.1

Một số nét chính về Đại học Thủy Lợi........................................................26

2.6.2

Tình hình phát triển thương hiệu Đại học Thủy Lợi...................................28 iii

2.7 Các đề tài nghiên cứu liên quan.........................................................................30 CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............................................................32 3.1 Giai đoạn định tính.............................................................................................32 3.2 Giai đoạn định lượng..........................................................................................33 3.2.1

Tổng thể và mẫu..........................................................................................33

3.2.2

Công cụ nghiên cứu.....................................................................................33

3.3 Phân tích dữ liệu.................................................................................................34 CHƯƠNG 4. PHÂN TÍCH VÀ KẾT QUẢ.....................................................................35 4.1 Đặc điểm nhân khẩu học của các đối tượng tham gia nghiên cứu.....................35 4.2 Những liên tưởng gắn với Đại học Thủy Lợi......................................................37 4.2.1

Những liên tưởng mạnh...............................................................................37

4.2.2

Những liên tưởng có ý nghĩa quan trọng.....................................................39

4.2.3

Những liên tưởng độc đáo...........................................................................40

4.3 Đánh giá một số liên tưởng nổi bật dựa trên ba tiêu chí....................................41 4.3.1

Những liên tưởng mạnh gắn với thương hiệu Đại học Thủy Lợi................41

4.3.2

Những liên tưởng có ý nghĩa quan trọng đối với học sinh cấp III Hà Nội.43

4.3.3

Những liên tưởng độc đáo gắn với Đại học Thủy Lợi................................45

4.4 Bàn luận về kết quả điều tra...............................................................................46 4.5 Một số kiến nghị nhằm cải thiện cảm nhận của học sinh cấp III tại Hà Nội về hình ảnh ĐHTL...........................................................................................................49 4.6 Những hướng nghiên cứu tiếp theo.....................................................................51 CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN...............................................................................................53 5.1 Tóm tắt kết quả nghiên cứu.................................................................................53 5.2 Hạn chế của đề tài..............................................................................................53 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................55 PHỤ LỤC........................................................................................................................57 Phụ lục 1. Phiếu câu hỏi khảo sát...............................................................................58 Phụ lục 2. Thống kê chi tiết về những người tham gia điều tra..................................60 Phụ lục 3. Các bảng tính chi tiết.................................................................................63

iv

DANH SÁCH BẢNG Bảng 1. Các nhân tố ảnh hưởng đến tài sản thương hiệu trong dịch vụ giáo dục đại học...........................................................................................................................22 Bảng 2. Dự kiến chỉ tiêu tuyển sinh và quy mô đào tạo đại học chính quy giai đoạn 2011-2015................................................................................................................27 Bảng 3. Những đối tượng tham gia phỏng vấn...........................................................35 Bảng 4. Những học sinh cấp III tại Hà Nội tham gia khảo sát..................................36 Bảng 5. Những liên tưởng mạnh thu thập qua phỏng vấn........................................38 Bảng 6. Những liên tưởng có ý nghĩa quan trọng thu được qua phỏng vấn............39 Bảng 7. Những liên tưởng độc đáo thu thập được qua phỏng vấn...........................40 Bảng 8. Danh sách 20 liên tưởng được đưa vào phiếu điều tra khảo sát.................41 Bảng 9. Đánh giá sức mạnh của các liên tưởng thương hiệu ĐHTL........................42 Bảng 10. Đánh giá ý nghĩa quan trọng của các liên tưởng thương hiệu ĐHTL......44 Bảng 11. Đánh giá tính độc đáo của các liên tưởng thương hiệu ĐHTL..................45

DANH SÁCH HÌNH Hình 1. Kim tự tháp tài sản dựa vào khách hàng (CBBE)........................................11 Hình 2. Bản chất đa diện của thương hiệu đại học.....................................................22 Hình 3. Số lượng học sinh lớp 10, 11 và 12 tham gia khảo sát tại mỗi trường.........37

TỪ VIẾT TẮT CBBE

Tài sản thương hiệu dựa vào khách hàng

ĐHTL

Đại học Thủy Lợi

v

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU 1.1 Bối cảnh chung và cơ sở xây dựng đề tài 1.1.1 Tầm quan trọng của thương hiệu đối với trường đại học Trong kinh doanh, khái niệm “thương hiệu” từ lâu đã trở nên quá quen thuộc và khẳng định tầm quan trọng của nó đối với sự thành bại của một sản phẩm nói riêng và một doanh nghiệp nói chung. Các nhà quản trị marketing trên toàn cầu đều coi việc xây dựng, phát triển và bảo vệ thương hiệu là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm đánh bại các các đối thủ cạnh tranh. Mặc dù giáo dục đã từng được coi là một lĩnh vực hoàn toàn tách biệt, thậm chí là trái ngược với kinh doanh, nhưng ngày nay, khi mà những nguyên tắc kinh tế thị trường ngày càng phát triển và bành trướng thành một trong những nhân tố chính nuôi sống loài người, thì ngành giáo dục nói chung, và giáo dục đại học nói riêng, cũng đã và đang áp dụng những nguyên tắc đó để thúc đẩy sự phát triển của mình. Nhìn từ góc độ kinh doanh, giáo dục được coi là một ngành dịch vụ, trong đó các cơ sở đào tạo là nơi cung cấp dịch vụ, còn khách hàng chính là người học. Và cũng tương tự với môi trường kinh doanh, để có thể tồn tại và phát triển lớn mạnh, các cơ sở giáo dục ngày nay, kể cả các cơ sở giáo dục được nhà nước bảo trợ, không còn có thể thụ động chờ “khách hàng” tìm đến, mà phải tìm cách quảng bá hình ảnh và tên tuổi của mình đến càng nhiều đối tượng càng tốt, đặt ra vấn đề về “xây dựng và phát triển thương hiệu” trong giáo dục. Thực ra, không chỉ tới gần đây mà khái niệm “thương hiệu” mới được nhìn nhận trong môi trường giáo dục đại học. Việc hàng mấy chục năm qua Đại học Havard của Mỹ nổi tiếng và có uy tín hơn vô vàn những trường đại học khác trên thế giới nói lên điều gì? Và tại sao ấn tượng đầu tiên về một con người có thể thay đổi chỉ dựa trên tên trường đại học mà anh ta đã học? Tất cả đều có thể được lý giải từ góc độ “thương hiệu”, đủ để nói lên tầm quan trọng của thương hiệu đối với một trường đại học. Mặt khác, trong thế kỷ 21, thế giới cũng chứng kiến mức độ tăng nhanh chóng về số lượng các trường đại học và cao đẳng tại hầu hết các nước phát triển và đang phát triển, chẳng hạn như tại Mỹ, từ tổng số 4.182 trường đại học và cao đẳng vào năm 2000 đã tăng đều hàng năm lên đến 4.495 vào năm 20101, bên cạnh một thực tế là “thế giới ngày càng phẳng”, mở 1

Theo số liệu của Trung tâm Quốc gia về Thống kê Giáo dục của Mỹ (NCES).

1

rộng vô cùng đáng kể khả năng lựa chọn trường đại học của phần lớn các đối tượng sắp tốt nghiệp cấp III. Điều này dẫn đến hệ quả là sự cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt giữa các trường đại học trong việc thu hút sinh viên, đặc biệt là những học sinh xuất sắc. Theo báo cáo của Hanover Research (2010), kết quả một nghiên cứu xác định “hình ảnh hoặc danh tiếng” là một trong bốn nhân tố chính mà các sinh viên đại học tương lai xem xét trước khi quyết định nộp đơn, đặt ra những yêu cầu cấp thiết hơn cho mỗi trường đại học về việc nâng cao hình ảnh và uy tín của mình. Thực tế, hiện nay rất nhiều trường đại học trên thế giới đã và đang thực hiện những chiến dịch xây dựng thương hiệu dài kỳ, như Đại học Point Park (Mỹ) đã chi 1 tỷ USD cho chiến dịch phát triển thương hiệu vào năm 2004, và Đại học Houston (Mỹ) cũng phát động “chiến dịch hình ảnh” trị giá 5 tỷ USD, kéo dài trong 5 năm từ năm 2005 (Hanover Research, 2010). Vô số trường đại học khác đang làm việc tương tự. Tại Việt Nam, một số lượng không nhỏ các trường đại học và cao đẳng mới, cả công lập và ngoài công lập, đã được mở trong những năm gần đây, tạo ra một môi trường cạnh tranh rất khó khăn. Theo thống kê mới nhất của ngành giáo dục 2, riêng trong hai năm 2006-2007 thì đã có 39 trường đại học được thành lập, tức là mỗi năm trung bình có gần 20 trường mới ra đời. Trong 4 năm từ 2008 đến nay thì đã có tới 45 trường được thành lập, đưa tổng số trường đại học và cao đẳng của cả nước lên con số 440, trong đó có 77 trường là ngoài công lập. Hiện tượng các trường đại học, cao đẳng mới xuất hiện ồ ạt này đã dẫn tới một thực tế là việc tuyển sinh đủ chỉ tiêu không còn là chuyện dễ dàng như trước, đặc biệt là với những trường chưa tạo được danh tiếng và chỗ đứng nổi bật, hay nói cách khác là chưa khẳng định “thương hiệu” của mình. Điều này được thể hiện phần nào thông qua điểm chuẩn của các trường đại học trong kỳ thi tuyển sinh đại học năm 2011/2012, khi mà có không ít trường đại học không thể tuyển sinh đủ chỉ tiêu với điểm sàn (vốn đã rất thấp) mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đặt ra, và buộc phải hủy bỏ một số ngành đào tạo3. Trong bối cảnh như vậy, Đại học Thủy Lợi, với các chuyên ngành tập trung nhiều vào lĩnh vực thủy lợi bên cạnh một số ngành mới mở khác như kinh tế và công nghệ thông tin, cũng là một trong những trường đại học gặp phải nhiều khó khăn trong tuyển sinh. Tuy số lượng sinh viên được tuyển đạt được chỉ tiêu, nhưng điểm chuẩn của một số 2 3

Theo Báo Giáo dục Việt Nam ra ngày 01/11/2011. Theo bài báo “University glut forces many faculties to close” đăng trên Việt Nam News ra ngày

18/10/2011

2

ngành trong đợt tuyển sinh năm 2011 đã phải đặt ở mức thấp nhất có thể, và điểm chuẩn trung bình cho tất cả các ngành là khoảng 15 điểm, một con số không cao so với những trường có tiếng hơn tại Hà Nội như Đại học Ngoại thương (23,6), Đại học Y Hà Nội (22,6), Đại học Bách Khoa (19,4), Đại học Xây dựng (18,3) 4. Trong khi đó, với nhận thức về tầm quan trọng ngày càng lớn của thương hiệu trong môi trường giáo dục đại học từ nhiều năm trước, trong Chiến lược phát triển giai đoạn 2006-2020, được đưa ra vào năm 2006, Trường Đại học Thủy Lợi đã đặt ra mục tiêu là “vươn lên top 10 các trường đại học của Việt Nam” và “đưa thương hiệu” của nhà trường lên tầm khu vực và thế giới. Kết quả tuyển sinh năm 2011 vừa đề cập ở trên cho thấy kết quả thực hiện mục tiêu này trong 5 năm qua chưa đạt được thành tựu như mong muốn. Thiết nghĩ, để hiện thực hóa được mục tiêu đó, một trong những câu hỏi đầu tiên cần được giải đáp là hiện nay thương hiệu của Đại học Thủy Lợi đang được “khách hàng” của nhà trường đánh giá như thế nào và vị trí của nó đang ở đâu so với thương hiệu của các trường đại học khác. Cần phải tìm ra được câu trả lời chính xác cho câu hỏi này thì Đại học Thủy Lợi mới có thể xác định hướng đi đúng đắn trong việc củng cố hoặc cải thiện hình ảnh và uy tín của mình trong mắt học sinh, sinh viên và phụ huynh của họ, từ đó hoàn thành tốt các mục tiêu đào tạo. Đây chính là cơ sở để tôi chọn đề tài nghiên cứu.

1.1.2 Tập trung nghiên cứu hình ảnh thương hiệu Có nhiều khía cạnh cần phải được xem xét và nghiên cứu một cách sâu rộng để có một cái nhìn toàn diện và chính xác về về thương hiệu của một trường đại học và chỗ đứng của nó so với mặt bằng chung của các trường đại học trong nước hoặc khu vực. Tuy nhiên, do thời gian và nguồn lực thực hiện có hạn, tôi lựa chọn một khía cạnh nhỏ về thương hiệu để nghiên cứu đối với Đại học Thủy Lợi trong khuôn khổ bài luận văn này. Đó là hình ảnh thương hiệu. Theo Keller (2008), hình ảnh thương hiệu được phản ánh bởi những liên tưởng mà khách hàng gắn với thương hiệu. Những liên tưởng này bao gồm những đặc tính và lợi ích có thể gắn với thương hiệu và các đối thủ cạnh tranh của nó. Trong trường hợp của Đại học Thủy Lợi, những liên tưởng này có thể là “đầu vào dễ”, “dễ kiếm việc làm”, “chất lượng giảng dạy tốt”, “môi trường học tập tốt”, “nhiều ngành nghề để lựa chọn”, “học phí phù hợp”, “nhiều cơ hội mở rộng nghiên cứu”, “vị trí thuận lợi trong thành phố”, “cơ sở vật chất khang trang”, v.v… Khi xác định được những liên tưởng đối với 4

Theo kết quả điểm chuẩn tuyển sinh của các trường năm 2011

3

thương hiệu của Đại học Thủy Lợi và đánh giá được đóng góp của chúng vào tài sản thương hiệu, thì sẽ có cái nhìn rõ ràng về những điểm mạnh và yếu, những điểm cần phát huy và khắc phục về thương hiệu Đại học Thủy Lợi đối với đối tượng khách hàng mục tiêu, mang lại kết quả có ý nghĩa thực tiễn đối với sự phát triển của Nhà trường.

1.1.3 Ý nghĩa của việc chọn phạm vi nghiên cứu là học sinh cấp III tại Hà Nội Lý do cho sự lựa chọn đối tượng học sinh cấp III để thực hiện nghiên cứu là bởi vì đây là khách hàng tiềm năng tương lai của Đại học Thủy Lợi, là đối tượng trực tiếp cần thu hút trong tuyển sinh, nên những cảm nhận của đối tượng này đối với thương hiệu của trường có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nếu không nói là có tính quyết định. Hơn nữa, có một nghịch lý là mặc dù khu vực Hà Nội là nơi đặt cơ sở đào tạo lớn nhất của Đại học Thủy Lợi, nơi cung cấp môi trường học tập cho gần 80% tổng số sinh viên được đào tạo tại các cơ sở của trường trên cả nước, nhưng đa số sinh viên học tại Đại học Thủy Lợi cơ sở Hà Nội đều là từ các tỉnh khác đến. Số sinh viên có gia đình thuộc nội thành Hà Nội chiếm số lượng không đáng kể, dao động từ 10-15% trên tổng số sinh viên toàn trường5. Trong khi đó, một lãnh đạo của Đại học Thủy Lợi đã nhận định rằng việc không thu hút được nhiều học sinh sinh ra và lớn lên ở Hà Nội là một trong những thiệt thòi của trường, bởi vì rõ ràng rằng điều kiện sống và học tập những học sinh này cao hơn so với phần lớn các em ở nông thôn, cho nên năng lực học tập và xã hội của những học sinh ở Hà Nội có cơ hội được phát triển hơn. Do đó, nếu thu hút được nhiều hơn những học sinh khá giỏi ở Hà Nội thì mặt bằng năng lực của sinh viên Đại học Thủy Lợi sẽ được nâng cao đáng kể, từ đó chất lượng dạy và học cũng như uy tín của trường cũng sẽ theo đó mà được nâng lên. Đây cũng là một trong những lý do tôi muốn nghiên cứu về hình ảnh thương hiệu của Đại học Thủy Lợi đối với riêng đối tượng học sinh cấp III tại Hà Nội, nhằm xác định xem đâu là nguyên nhân thật sự khiến Đại học Thủy Lợi không thành công trong việc thu hút nhiều sinh viên trong nội thành Hà Nội, và từ đó, đề xuất những giải pháp nhằm cải thiện tình hình tuyển sinh của Đại học Thủy Lợi đối với đối tượng này.

1.2 Mục tiêu nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 5

Theo số liệu báo cáo của Phòng Quản lý Sinh viên Đại học Thủy Lợi (tháng 11/2011)

4

1.2.1 Mục tiêu và các câu hỏi nghiên cứu Như đã trình bày ở trên, trong khuôn khổ của đề tài “Hình ảnh thương hiệu Đại học Thủy Lợi đối với đối tượng học sinh cấp III tại Hà Nội” này, mục tiêu nghiên cứu là đánh giá hình ảnh thương hiệu của Đại học Thủy Lợi đối với đối tượng học sinh cấp III trên địa bàn Hà Nội, áp dụng mô hình CBBE (tài sản thương hiệu dựa trên khách hàng) của tác giả Keller (2008). Theo Keller (2008), để đánh giá những đóng góp của những liên tưởng vào tài sản thương hiệu, cần đánh giá từng liên tưởng đó dựa trên 1 trong 3 tiêu chí: sức mạnh (strength), tầm quan trọng (favourability) và tính độc đáo (uniqueness). Do đó, luận văn này tập trung tìm câu trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu sau: 1. Có những liên tưởng nào gắn với thương hiệu của Đại học Thủy Lợi? 2. Đánh giá ba tiêu chí của những liên tưởng nổi bật đối với thương hiệu của Đại học Thủy Lợi. 3. Những kiến nghị nhằm phát triển hoặc cải thiện hình ảnh thương hiệu của Đại học Thủy Lợi, dựa trên kết quả đánh giá về hình ảnh thương hiệu của Đại học Thủy Lợi và những hướng nghiên cứu tiếp theo.

1.2.2 Phạm vi nghiên cứu Vì những lý do đã nêu ở phần trước, đối tượng triển khai khảo sát về hình ảnh thương hiệu Đại học Thủy Lợi được khoanh vùng là học sinh tại một số trường cấp III trong khu vực thành phố Hà Nội.

1.3 Kết cấu của báo cáo luận văn Báo cáo luận văn này sẽ bao gồm 5 chương: Chương 1: Giới thiệu Chương 2: Tổng quan tài liệu về thương hiệu nói chung, mô hình CBBE, hình ảnh thương hiệu và các nghiên cứu liên quan đến hình ảnh thương hiệu của một trường đại học. Chương 3: Phương pháp nghiên cứu Chương 4: Phân tích và kết quả nghiên cứu 5

Chương 5: Kết luận

6

2 CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1 Thương hiệu 2.1.1 Định nghĩa về thương hiệu Thuật ngữ “thương hiệu” đã tồn tại hàng thế kỷ nay như một phương tiện nhằm phân biệt hàng hóa của nhà sản xuất này với hàng hóa của nhà sản xuất khác (Keller, 2008). Cùng với sự phát triển liên tục các công cuộc nghiên cứu về thương hiệu và hoạt động xây dựng thương hiệu, đã có rất nhiều tác giả đưa ra định nghĩa của riêng mình về thương hiệu, tuy nhiên, nhìn chung, có thể phân biệt hai cách tiếp cận đối với khái niệm về thương hiệu. Ở cách tiếp cận thứ nhất, Hiệp Hội Marketing Mỹ (AMA) đã đưa ra một định nghĩa rất phổ biến: “thương hiệu là một cái tên, một thuật ngữ, một ký hiệu, một biểu tượng hoặc một thiết kế, hoặc sự kết hợp của tất cả các yếu tố vừa kể, nhằm xác định hàng hóa hoặc dịch vụ của một người bán hoặc một nhóm người bán, và nhằm phân biệt chúng với những sản phẩm cạnh tranh”. Theo đó, chức năng cơ bản và trước nhất của thương hiệu đơn giản là dùng để phân biệt các sản phẩm với nhau, và cứ mỗi khi một sản phẩm mới xuất hiện với một cái tên, một ký hiệu hoặc biểu tượng mới thì chính là lúc một thương hiệu mới ra đời. Có thể nói định nghĩa này nhấn mạnh vào khía cạnh hữu hình của thương hiệu, và được đưa ra từ góc độ của người sản xuất, hay nói cách khác là “góc độ đầu vào” (Ryder, 2006). Mặt khác, hầu hết các nhà kinh doanh đều coi thương hiệu có ý nghĩa rộng hơn và phức tạp hơn rất nhiều so với định nghĩa trên. Thương hiệu ngoài việc là một “lời hứa hẹn” của người bán đối với người mua về tính chất và lợi ích của sản phẩm hoặc dịch vụ (Kotler, 1999), mà nó còn “thực sự tạo ra khả năng được nhận biết, danh tiếng, sự nổi bật” cho sản phẩm hoặc dịch vụ trên thị trường (Keller, 2008). Andy Payne, Giám đốc điều hành về sáng tạo của Interbrand - công ty tư vấn hàng đầu thế giới về xây dựng thương hiệu, khẳng định thương hiệu không chỉ là đại diện cho sự khác biệt của sản phẩm hoặc dịch vụ, mà nó còn đặc biệt quan trọng ở chỗ là nguyên nhân tại sao người

7

mua cảm thấy bị thu hút hoặc bị thuyết phục rằng sản phẩm hoặc dịch vụ đó tốt hơn sản phẩm hoặc dịch vụ khác6. John Murphy, người sáng lập ra Interbrand, trong một tác phẩm hiện nay vẫn thường xuyên được các nhà nghiên cứu trích dẫn của ông năm 1987, đã khái quát các thành phần của thương hiệu bao gồm “... bản thân sản phẩm, bao bì, nhãn hiệu, hoạt động tuyên truyền, quảng cáo và toàn bộ quá trình thể hiện sản phẩm,” và kết luận rằng thương hiệu là “tổng hợp của tất cả các yếu tố này, cả về mặt vật chất hữu hình, thẩm mỹ, lý trí và cảm xúc”. Có thể thấy, định nghĩa của Murphy đã giải thích rõ những gì tạo ra thương hiệu từ cả hai góc độ, góc độ đầu vào của nhà sản xuất và góc độ đầu ra của khách hàng (Ryder, 2006). Tóm lại, dù sử dụng những cách thức và câu chữ khác nhau để thể hiện, nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu, cũng như các nhà kinh doanh trong thực tế, ngày nay đều có chung một thống nhất rằng thương hiệu không chỉ là sản phẩm, mà nó có những yếu tố giúp phân biệt sản phẩm đó với những sản phẩm khác được thiết kế để đáp ứng cùng một nhu cầu. Những sự khác biệt này có thể là lý tính và hữu hình hoặc cảm tính và vô hình. Quan trọng hơn, thương hiệu có thể tạo ra “giá trị thặng dư” cho sản phẩm hoặc dịch vụ. Chính nhờ “giá trị thặng dư” đó mà ngày nay không ít các doanh nghiệp trên thế giới coi các thương hiệu là tài sản lớn nhất mà họ nắm giữ, và đây là cơ sở hình thành và phát triển khái niệm “tài sản thương hiệu”.

2.1.2 Tài sản thương hiệu Tương tự như hai cách tiếp cận đối với khái niệm thương hiệu, tài sản thương hiệu cũng được nhìn nhận từ hai góc độ. Đứng từ góc độ tài chính, thương hiệu và tài sản thương hiệu được phân biệt như sau: “Một thương hiệu là một cái tên; tài sản thương hiệu là giá trị của cái tên đó.” (Mourad et al, 2010). Cụ thể hơn, David Aaker (1991) định nghĩa tài sản thương hiệu “là tổng các tài sản có (hoặc tài sản nợ) gắn liền với tên hoặc biểu tượng của một thương hiệu, làm tăng lên (hoặc giảm đi) giá trị mà sản phẩm hoặc dịch vụ mang lại.” Có thể nói tài sản thương hiệu là một trong những nhân tố chính làm tăng giá trị tài chính của một thương hiệu đối với chủ thương hiệu (Grannell, 2009). Một số học giả khác nhìn tài sản thương hiệu từ góc độ khách hàng thì định nghĩa tài sản thương hiệu là sự khác biệt mà tri thức thương hiệu tác động đến phản ứng của khách

6

Theo bài viết “Profile: Interbrand” đăng ngày 17/3/2008 trên trang web của tạp chí Computer Arts, UK.

8

hàng (Keller, 2008). Theo đó, tài sản thương hiệu đo giá trị gắn liền với thương hiệu mà khách hàng được nhận (Mourad et al, 2010). Dù được nhìn từ góc độ nào thì một thương hiệu mạnh, có tài sản thương hiệu cao sẽ có giá trị cao hơn hẳn giá trị thực của nó, tức là, khi sở hữu một thương hiệu đã được công nhận là một thương hiệu mạnh thì doanh nghiệp đôi khi có thể đưa ra mức giá cao hơn rất nhiều so với chi phí đã bỏ ra cho sản phẩm và dịch vụ mang thương hiệu đó. Vì thế, có thể nói mục tiêu của các chiến lược marketing được thiết kế và triển khai trong quá trình xây dựng thương hiệu cũng đều là nhằm tăng tài sản thương hiệu của sản phẩm hoặc dịch vụ đó. Theo đó, một trong những vấn đề được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm chính là làm thế nào để xây dựng được một thương hiệu mạnh và đo lường tài sản thương hiệu như thế nào, dẫn đến rất nhiều nghiên cứu được triển khai để giải quyết vấn đề này. Nhìn chung, hiện nay trên thế giới, tài sản thương hiệu được xây dựng và đo lường bằng nhiều phương thức và mô hình khác nhau, tùy theo mục đích và cách tiếp cận, và mô hình CBBE do Keller đưa ra là một trong số đó.

2.2 Mô hình CBBE của Keller Mô hình CBBE (tài sản thương hiệu dựa vào khách hàng) được Keller giới thiệu lần đầu vào khoảng năm 2000, và sau đó đã phân tích chi tiết trong tác phẩm “Quản trị Thương hiệu Chiến lược: Xây dựng, Đánh giá và Quản lý Tài sản Thương hiệu” (tái bản lần thứ 3 vào năm 2008). Mô hình này tiếp cận tài sản thương hiệu từ góc độ khách hàng. Định đề cơ bản của mô hình CBBE là “sức mạnh của một thương hiệu nằm ở những gì mà khách hàng biết được, cảm nhận được, thấy được và nghe được về thương hiệu sau một thời gian trải nghiệm nó.” Nói cách khác, “sức mạnh của thương hiệu nằm ở những gì ngự trị trong tâm trí khách hàng,” do đó, thách thức mà các nhà marketing phải chinh phục được trong quá trình xây dựng thương hiệu là làm sao đó để khách hàng có những trải nghiệm phù hợp với sản phẩm và dịch vụ cũng như các chương trình marketing đi kèm với chúng, nhằm gắn kết vào thương hiệu tất cả những suy nghĩ, cảm xúc, hình ảnh, lòng tin, cảm nhận và ý kiến (cùng những điều tương tự khác) mà họ mong muốn khách hàng có với thương hiệu. Như đã đề cập, Keller (2008) định nghĩa “tài sản thương hiệu dựa vào khách hàng (CBBE) là hiệu ứng khác biệt mà tri thức thương hiệu tạo ra ở phản ứng của khách hàng đối với hoạt động marketing của thương hiệu”. Cụ thế, một thương hiệu có CBBE 9

dương nếu khách hàng có phản ứng tốt với một sản phẩm và cách nó được tiếp thị khi họ biết sản phẩm này mang thương hiệu đó hơn là khi không biết (chẳng hạn như khi sản phẩm được dưa ra dưới một cái tên giả hoặc không nói tên). Nghĩa là khách hàng sẽ có thể dễ chấp nhận một thương hiệu con mới của một thương hiệu có CBBE dương hơn, ít nhạy cảm hơn với việc tăng giá và sự rút lui của các hỗ trợ quảng cáo, hoặc sẵn sàng tìm kiếm thương hiệu đó tại một kênh phân phối mới hơn. Ngược lại, một thương hiệu có CBBE âm nếu khách hàng có phản ứng kém thuận lợi hơn với sản phẩm và hoạt động marketing khi họ biết sản phẩm thuộc thương hiệu này, so với khi họ không biết. Dựa trên định nghĩa trên, có thể thấy theo quan điểm của mô hình CBBE thì tài sản thương hiệu xuất phát từ sự khác biệt trong phản ứng của khách hàng mà sự khác biệt này được tạo ra bởi tri thức thương hiệu của khách hàng, tức là tất cả những gì khách hàng biết được, cảm nhận được, nhìn thấy được và nghe thấy được về thương hiệu dựa trên những trải nghiệm của họ trước đó. Nói ngắn gọn, “tri thức thương hiệu chính là chìa khóa tạo ra tài sản thương hiệu”. Tri thức thương hiệu mà các nhà quản lý marketing tạo ra được trong tâm trí khách hàng trong quá khứ sẽ quyết định giá trị thực sự và viễn cảnh tương lai của thương hiệu. Do đó, điều mà các nhà quản lý marketing cần là tìm ra phương thức tái hiện tri thức thương hiệu trong ký ức khách hàng. Sử dụng một mô hình về ký ức trong tâm lý học, mô hình CBBE xác định tri thức thương hiệu gồm có hai thành phần: nhận thức thương hiệu và hình ảnh thương hiệu. Nhận thức thương hiệu là khả năng nhận ra thương hiệu và nhớ tới thương hiệu trong những điều kiện khác nhau. Đây là bước cần thiết, nhưng không phải lúc nào cũng đủ, để tạo ra tài sản thương hiệu, mà thông thường khái niệm quan trọng hơn trong quá trình này là hình ảnh thương hiệu, tức những cảm nhận của khách hàng về một thương hiệu, được phản ánh bằng những liên tưởng nằm trong tâm trí khách hàng. Nhận thức thương hiệu và hình ảnh thương hiệu chính là các nguồn của tài sản thương hiệu. Keller (2008) xác định “tài sản thương hiệu dựa vào khách hàng xuất hiện khi khách hàng có một mức độ nhận thức và quen thuộc cao đối với thương hiệu và có những liên tưởng mạnh, có ý nghĩa quan trọng và độc đáo về thương hiệu trong tâm trí.” Dựa trên nền tảng đó, mô hình CBBE vạch ra bốn bước xây dựng một thương hiệu mạnh, trong đó mỗi bước chỉ có thể thực hiện được sau khi đã đạt được những mục tiêu ở bước trước đó. Bốn bước này gồm:

10

(1) Thiết lập nhận diện thương hiệu đúng đắn, tức là tạo ra chiều rộng và chiều sâu cho nhận thức thương hiệu; (2) Tạo ra ý nghĩa thương hiệu phù hợp thông qua những liên tưởng mạnh, có ý nghĩa quan trọng và độc đáo (tức tạo ra hình ảnh thương hiệu tích cực); (3) Gợi ra những phản ứng tích cực, dễ liên hệ ở khách hàng; và (4) Hình thành các quan hệ thương hiệu với khách hàng, được thể hiện bằng sự trung thành mạnh mẽ và chủ động của khách hàng Triển khai bốn bước trên là tạo ra sáu khối thành tố tạo dựng thương hiệu, gồm có sự nổi trội của thương hiệu (brand salience), hiệu năng của thương hiệu (brand performance), hình tượng của thương hiệu (brand imagery), các đánh giá về thương hiệu (brand judments), các cảm xúc về thương hiệu (brand feelings) và sự cộng hưởng về thương hiệu (brand resonance), được thể hiện theo hình kim tự tháp như Error: Reference source not found bên dưới, với xuất phát điểm là từ chân tháp. Các giai đoạn phát triển thương hiệu

Mục tiêu của mỗi bước

4. Quan hệ thương hiệu

Các mối quan hệ mạnh mẽ và chủ động

3. Phản ứng thương hiệu

2. Ý nghĩa thương hiệu

1. Nhận diện thương hiệu

Cộng hưởng

Đánh giá

Hiệu năng

Cảm xúc

Các phản ứng tích cực và dễ liên hệ

Hình tượng

Điểm ngang hàng và khác biệt

Sự nổi trội

Nhận thức thương hiệu sâu và rộng

Hình 1. Kim tự tháp tài sản dựa vào khách hàng (CBBE) (Nguồn: Keller, 2008)

11

Cụ thể, ở bước (1), để thiết lập được một nhận diện thương hiệu đúng đắn thì phải tạo ra được sự nổi trội cho thương hiệu (so với những thương hiệu cạnh tranh khác), và nó đánh giá mức độ nhận thức của khách hàng về thương hiệu. Đây là khối thành tố nền tảng trong việc xây dựng tài sản thương hiệu, ảnh hưởng đến việc hình thành và sức mạnh của những liên tưởng thương hiệu tạo nên hình ảnh thương hiệu ở bước (2). Sự nổi trội của thương hiệu chính là nhân tố đầu tiên đem lại cơ hội được mua và tiêu thụ cho sản phẩm và dịch vụ. Tiêu chí để đánh giá sự nổi trội của thương hiệu là mức độ sâu và rộng của nhận thức thương hiệu. Một thương hiệu có sự nổi trội cao là thương hiệu có nhận thức thương hiệu sâu (tức là khách hàng có thể dễ dàng nhận ra và nhớ đến thương hiệu) và rộng (tức thương hiệu được nhận ra, nhớ đến ở rất nhiều hoàn cảnh khác nhau). Như đã đề cập, tài sản thương hiệu thường không xuất hiện khi chỉ mới có mức độ nhận thức cao, mà ý nghĩa hoặc hình ảnh thương hiệu thường có vai trò lớn hơn. Tạo ra ý nghĩa cho thương hiệu ở bước (2) chính là thiết lập hình ảnh thương hiệu – những liên tưởng về thương hiệu nằm trong tâm trí khách hàng. Những liên tưởng này được phân làm hai nhóm: nhóm liên tưởng liên quan đến hiệu năng của thương hiệu và nhóm liên tưởng liên quan đến hình tượng của thương hiệu. Và ý nghĩa thương hiệu hay hình ảnh thương hiệu được đánh giá bằng ba tiêu chí: sức mạnh, tầm quan trọng và độc đáo của những liên tưởng thương hiệu. Đây là nội dung liên quan đến đề tài nghiên cứu, sẽ được trình bày chi tiết hơn ở phần tiếp theo. Khi thương hiệu đã có nhận diện thương hiệu đúng đắn và ý nghĩa thương hiệu phù hợp, bước tiếp theo sẽ là gợi ra những phản ứng tích cực đối với thương hiệu, các hoạt động marketing và các nguồn thông tin khác. Phản ứng với thương hiệu chia làm hai loại là những đánh giá về thương hiệu và cảm xúc mà khách hàng có với thương hiệu. Tiêu chí đánh giá các phản ứng là mức độ tích cực của chúng, cũng như việc chúng xuất hiện dễ và nhanh đến mức nào khi khách hàng nghĩ đến thương hiệu. Khối thành tố tạo dựng thương hiệu cuối cùng và có giá trị nhất, sự cộng hưởng về thương hiệu, chỉ có được khi tất cả các khối thành tố khác đã hình thành. Đối với thương hiệu có sự cộng hưởng thực sự, khách hàng sẽ thể hiện mức độ trung thành rất cao, như là họ chủ động tìm cách tương tác với thương hiệu và chia sẻ kinh nghiệm với người khác. Những doanh nghiệp có thể đạt được sự cộng hưởng cho thương hiệu sẽ gặt hái được rất nhiều lợi ích, như có thể đưa ra những mức giá cực cao cho sản phẩm và 12

đạt được hiệu quả và hiệu suất cao cho các chương trình marketing. Đây là mục tiêu cuối cùng của việc xây dựng thương hiệu. Như vậy, mô hình CBBE do Keller xây dựng đã đưa ra một cái nhìn toàn diện về quá trình xây dựng thương hiệu, với bốn bước và sáu khối thành tố cụ thể cùng những phân tích rất chi tiết, kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết và thực tiễn, giúp các nhà quản lý marketing có những chiến lược phù hợp để đánh giá và xây dựng tài sản thương hiệu mạnh. Có thể nói hiện nay, đây là mô hình nhận được sự đánh giá rất cao trong lĩnh vực marketing trên toàn thế giới bên cạnh những mô hình uy tín khác. Mô hình CBBE được áp dụng để đánh giá hình ảnh thương hiệu cho Đại học Thủy Lợi trong đề tài nghiên cứu này.

2.3 Hình ảnh thương hiệu và phương pháp đánh giá theo mô hình CBBE 2.3.1 Liên tưởng thương hiệu và phân loại liên tưởng thương hiệu Như đã trình bày ở phần trước, Keller (2008) định nghĩa “hình ảnh thương hiệu là các cảm nhận của khách hàng về một thương hiệu, được phản ánh bằng những liên tưởng lưu giữ trong ký ức của khách hàng về thương hiệu đó”. Những liên tưởng này có thể xuất hiện ở mọi hình thức và có thể phản ánh các đặc điểm của sản phẩm và các khía cạnh khác độc lập khỏi sản phẩm. Keller (2008) đã cho một ví dụ về thương hiệu Apple. Khi nhắc tới máy vi tính Apple, chúng ta thường nghĩ tới điều gì đầu tiên? Câu trả lời có thể là “dễ sử dụng”, “sáng tạo”, “nhiều tính năng”, “đồ họa đẹp”, “Steven Jobs”, “biểu tượng quả táo cắn dở”, v.v... Tất cả những liên tưởng mà chúng ta nghĩ ra tạo nên hình ảnh thương hiệu của chúng ta về máy vi tính Apple. Đương nhiên, những thương hiệu khác nhau sẽ gắn liền với những liên tưởng khác nhau. Do số lượng liên tưởng gắn với mỗi thương hiệu thường là rất lớn, nên chúng có thể được phân loại thành hàng nghìn loại khác nhau. Tuy nhiên, thông thường, các liên tưởng thương hiệu thường được phân thành hai nhóm lớn: nhóm liên tưởng liên quan đến hiệu năng của thương hiệu và nhóm liên quan đến hình tượng của thương hiệu, và mỗi nhóm có thể phân thành một số nhóm nhỏ khác.

13

Hiệu năng thương hiệu

Hiệu năng thương hiệu chỉ những thuộc tính bản chất bên

trong của thương hiệu về những đặc điểm vốn có của sản phẩm hoặc dịch vụ. Hiệu năng thương hiệu liên quan đến các cách thức thỏa mãn nhu cầu mang tính chức năng cho khách hàng của sản phẩm hoặc dịch vụ. Chất lượng của thương hiệu được đánh giá khách quan như thế nào? Thương hiệu thỏa mãn đến đâu các nhu cầu thực tế, thẩm mỹ và kinh tế của khách hàng bằng sản phẩm hoặc dịch vụ của nó? Thông thường, có 5 loại thuộc tính và lợi ích về hiệu năng cụ thể nằm trong hiệu năng thương hiệu: (1) Những đặc tính sơ cấp và thứ cấp: khách hàng thường sẽ giữ một ấn tượng về mức độ hoạt động hiệu quả của các đặc tính sơ cấp, và đôi khi lưu giữ ấn tượng về những yếu tố sơ cấp đặc biệt hoặc sáng tạo. (2) Độ tin cậy, độ bền và khả năng cung cấp dịch vụ đi kèm của sản phẩm: cảm nhận về hiệu năng của sản phẩm thường bị tác động bởi các yếu tố như tốc độ, độ chính xác và sự chu đáo khi giao và lắp đặt sản phẩm; sự nhanh chóng, thái độ lễ độ và hợp tác trong dịch vụ chăm sóc khách hàng; chất lượng và thời gian của dịch vụ sửa chữa, v.v… (3) Hiệu quả, hiệu suất và sự đồng cảm trong cung cấp dịch vụ: khách hàng thường có những liên tưởng về hiệu năng với những tương tác về dịch vụ, trong đó hiệu quả là mức độ đáp ứng đòi hỏi của khách hàng, hiệu suất là tốc độ, mức độ nhạy bén khi thực hiện dịch vụ, và sự đồng cảm thể hiện ở thái độ tin cậy, chu đáo và coi trọng ý muốn của khách hàng của nhà cung cấp dịch vụ. (4) Phong cách và thiết kế: khách hàng có thể có các liên tưởng với một sản phẩm có tính thẩm mỹ cao, nên hiệu năng có thể cũng phụ thuộc vào những yếu tố giác quan như hình dáng, âm thanh, mùi vị, v.v… (5) Giá: chính sách giá cả của thương hiệu có thể tạo ra những liên tưởng đến mức giá, cũng như mức độ thường xuyên hoặc mức chênh lệch về giá của các chương trình khuyến mại mà thương hiệu áp dụng trong tâm trí khách hàng. Hình tượng thương hiệu Hình tượng thương hiệu liên quan đến những thuộc tính bên ngoài của sản phẩm hoặc dịch vụ, trong đó bao gồm cả những cách thức mà thương hiệu thỏa mãn nhu cầu về tâm lý và xã hội cho khách hàng. Hình tượng thương hiệu là những gì mà người ta nghĩ một cách trừu tượng về thương hiệu chứ không phải là những gì họ

14

nghĩ thương hiệu làm được. Do đó, hình tượng chỉ những khía cạnh vô hình của thương hiệu, có thể được phân loại thành bốn nhóm: (1) Chân dung người dùng: Một nhóm liên tưởng hình tượng thương hiệu liên quan đến loại người hoặc tổ chức sử dụng thương hiệu. Những liên tưởng này có thể dựa trên các nhân tố nhân khẩu học (như giới tính, sắc tộc, thu nhập, tình trạng hôn nhân) hoặc các nhân tố tâm lý (như thế giới quan, sự nghiệp, tài sản, vấn đề xã hội…) (2) Tình huống mua và sử dụng: nhóm liên tưởng này liên quan đến việc có thể hoặc nên mua và sử dụng thương hiệu ở những điều kiện nào. Những yếu tố về điều kiện mua có thể là loại kênh phân phối, một cửa hàng cụ thể nào đó, và mức độ mua sắm dễ dàng và các món quà kèm theo, nếu có… Còn những yếu tố về điều kiện sử dụng có thể là thời gian sử dụng trong ngày/tuần/tháng/năm, nơi sử dụng và loại hoạt động có thể sử dụng thương hiệu… (3) Cá tính và giá trị: Thương hiệu cũng có thể có những cá tính và giá trị tương tự như người, có thể được diễn tả bằng những khía cạnh: sự chân thành, sự sôi nổi, năng lực, sự tinh tế, và sự góc cạnh.. (4) Lịch sử, di sản và kinh nghiệm: thương hiệu có thể có những liên tưởng liên quan đến quá khứ và những sự kiện đáng nhớ trong lịch sử hình thành của nó. Loại liên tưởng này cũng có thể gắn với những kinh nghiệm hoặc quãng đời nổi bật của cá nhân, hoặc liên quan đến những hành vi và trải nghiệm trong quá khứ của bạn bè, gia đình và những người khác… Do đó, những liên tưởng này thường mang tính chất riêng có, dù đôi khi chúng có thể có điểm chung. Nếu không, những liên tưởng này có thể mang tính đại chúng và có thể được chia sẻ rộng rãi. Keller (2008) nhận định rằng việc một thương hiệu có tính hai mặt – vừa thỏa mãn được lý trí, vừa quyến rũ được trái tim của khách hàng – là rất quan trọng. Do đó, những thương hiệu mạnh thường kết hợp cả những nhân tố hiệu năng và hình tượng để tạo ra những phản ứng sâu sắc, đa dạng nhưng bổ sung lẫn nhau từ phía khách hàng đối với thương hiệu.

2.3.2 Ba tiêu chí đánh giá hình ảnh thương hiệu

15

Theo mô hình CBBE, muốn tạo ra một hình ảnh thương hiệu tốt thì cần phải tìm cách gắn kết thương hiệu với những liên tưởng mạnh, có ý nghĩa quan trọng và độc đáo trong tâm trí khách hàng. Mặc dù có nhiều cách để khách hàng hình thành các liên tưởng gắn với thương hiệu, như thông qua kinh nghiệm trực tiếp, thông tin từ các phương tiện truyền thông, qua truyền miệng, hoặc tự suy diễn dựa trên kiến thức hoặc sở thích cá nhân, v.v..., nhưng việc những liên tưởng này được hình thành như thế nào và ở đâu không quan trọng, quan trọng là sức mạnh, tầm quan trọng và sự độc đáo của chúng. Sức mạnh của các liên tưởng thương hiệu Những liên tưởng thương hiệu mạnh được hình thành khi khách hàng gắn kết các thông tin về sản phẩm hoặc dịch vụ (gồm các thuộc tính và lợi ích của chúng) một cách chặt chẽ và sâu sắc với những tri thức thương hiệu đã có trong tâm trí họ. Có hai nhân tố giúp tăng sức mạnh của các liên tưởng đối với thương hiệu là liên hệ tới cá nhân khách hàng và sự nhất quán mà thương hiệu thể hiện qua thời gian. Do đó, nhìn chung, những kinh nghiệm trực tiếp đối với sản phẩm và dịch vụ sẽ tạo ra những liên tưởng mạnh nhất về các thuộc tính và lợi ích của thương hiệu, và có ảnh hưởng đặc biệt lớn đến quyết định của khách hàng. Riêng đối với các loại hình dịch vụ như nhà hàng, giải trí, ngân hàng thì thông tin truyền miệng cũng đặc biệt quan trọng. Nguồn thông tin do doanh nghiệp cung cấp, như quảng cáo, thường tạo ra những liên tưởng yếu nhất và vì thế mà dễ thay đổi nhất. Do đó, các chương trình truyền thông marketing sử dụng những phương pháp truyền thông sáng tạo, giúp khách hàng hiểu cặn kẽ hơn các thông tin liên quan đến thương hiệu và liên hệ nó tới những tri thức họ đã có. Các phương pháp truyền thông này tiếp xúc thường xuyên với khách hàng và đảm bảo có những dấu hiệu gợi ý để nhắc khách hàng nhớ tới thương hiệu. Tầm quan trọng của các liên tưởng thương hiệu Các nhà quản trị marketing tạo ra những liên tưởng có ý nghĩa quan trọng về thương hiệu bằng cách thuyết phục khách hàng rằng thương hiệu sở hữu những thuộc tính và lợi ích phù hợp có thể thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của họ, để từ đó khách hàng hình thành những đánh giá tích cực về thương hiệu. Do đó, những liên tưởng có ý nghĩa quan trọng về một thương hiệu là những liên tưởng có những tính chất mà khách hàng mong muốn (như thuận tiện, đáng tin cậy, hiệu quả, nhiều màu sắc, v.v…) và được sản phẩm hoặc dịch vụ đáp ứng thành công. Có nghĩa rằng muốn tạo ra một liên tưởng có ý nghĩa quan trọng đòi hỏi doanh nghiệp phải hiện thực hóa thành công liên tưởng mà khách hàng mong muốn đó. Và việc hiện thực hóa thành công hay không phụ thuộc vào ba yếu tố: khả năng thực tế và tiềm ẩn của sản phẩm hoặc dịch vụ, các hoạt động truyền thông trong hiện tại và tương 16

lai về việc thực hiện những khả năng đó, và tính bền vững của việc thực hiện khả năng trên thực tế cũng như đã tuyên truyền theo thời gian. Tính độc đáo của các liên tưởng thương hiệu Có thể nói tính độc đáo là một trong những nguyên nhân lớn nhất thu hút khách hàng đến với một thương hiệu, nên khi xây dựng thương hiệu, các nhà marketing đều nhấn mạnh sự khác biệt của thương hiệu so với các đối thủ cạnh tranh bằng cách tạo ra những liên tưởng độc đáo. Tuy nhiên, trừ trường hợp thương hiệu không có đối thủ cạnh tranh nào, phần lớn các thương hiệu đều có chung một số liên tưởng với các thương hiệu khác, đặc biệt là những thương hiệu cùng chung lĩnh vực. Khách hàng có thể cho rằng tất cả các thương hiệu trong cùng một lĩnh vực đều có chung một số thuộc tính hoặc lợi ích nhất định, và coi một thương hiệu cụ thể nào đó là đại diện tiêu biểu nhất. Chẳng hạn như đối với tất cả các dịch vụ bán hàng trực tuyến, khách hàng đều trông đợi là chúng “cung cấp nhiều mặt hàng phong phú”, “vận chuyển hàng tận nơi”, “thủ tục mua bán an toàn”, v.v... và có thể sẽ coi Amazon.com hoặc các thương hiệu hàng đầu khác trong lĩnh vực này là đại diện tiêu biểu nhất cho dịch vụ bán hàng trực tuyến. Để có thể tạo ra được sự khác biệt nhằm nâng cao tài sản thương hiệu, các nhà marketing cần đảm bảo rằng một số liên tưởng thương hiệu mạnh không chỉ có ý nghĩa quan trọng mà còn phải độc đáo, tức là không “đụng hàng” với các thương hiệu cạnh tranh. Thông thường, những liên tưởng liên quan đến hình tương thương hiệu có khả năng tạo sự khác biệt hơn là những liên tưởng về hiệu năng. Có thể nói một cách ngắn gọn rằng, mục tiêu cần đạt được trong quá trình tăng tài sản thương hiệu là làm sao tạo ra trong tâm trí khách hàng những liên tưởng mạnh về thương hiệu, và những liên tưởng mạnh này nhất thiết phải có ý nghĩa quan trọng và độc đáo.

2.3.3 Phương pháp đánh giá hình ảnh thương hiệu Keller (2008) đã đưa ra một số phương pháp có thể được áp dụng để đánh giá hình ảnh thương hiệu, thông qua những liên tưởng cụ thể về thương hiệu trong tâm trí khách hàng. Ở đây, tôi chỉ trình bày phương pháp đơn giản và hiệu quả thường được áp dụng nhiều nhất. Nghiên cứu định tính

17

Để đánh giá hình ảnh thương hiệu, đầu tiên cần xác định các loại liên tưởng cụ thể khác nhau về thương hiệu, và việc này có thể được thực hiện bằng phương pháp liên tưởng tự do. Phương pháp này thường là phỏng vấn không có cấu trúc hoặc bán cấu trúc, cho phép cả người điều tra và khách hàng được tự do trong cách đặt câu hỏi và đưa ra câu trả lời, rất có ích trong bước đầu tìm hiểu cảm nhận của khách hàng về thương hiệu, sản phẩm hoặc dịch vụ. Cách đơn giản nhất và hiệu quả nhất là đặt câu hỏi trực tiếp “khi nhắc đến thương hiệu A thì bạn nghĩ đến điều gì đầu tiên?”, hoặc “bạn nghĩ gì về thương hiệu A?” Cách này giúp người điều tra thu thập được nhiều nhất có thể các liên tưởng gắn với thương hiệu, đồng thời cũng cho thấy đánh giá sơ bộ về sức mạnh, tầm quan trọng và tính độc đáo của những liên tưởng đó. Những liên tưởng được khách hàng gợi ra đầu tiên thường là những liên tưởng mạnh nhất, và những liên tưởng tiếp theo thường là ở mức độ yếu hơn. Tầm quan trọng của những liên tưởng này thể hiện qua cách khách hàng diễn tả nó, và tính độc đáo có thể thể hiện qua việc so sánh với những liên tưởng đối với các thương hiệu cạnh tranh. Để tìm hiểu rõ hơn về các liên tưởng có ý nghĩa quan trọng với khách hàng, người điều tra có thể yêu cầu khách hàng liệt kê ra những điểm họ thích nhất hoặc ghét nhất về thương hiệu, những điểm mạnh hoặc điểm yếu. Tương tự, để tìm hiểu về các liên tưởng độc đáo thì có thể đặt câu hỏi về những điểm mà khách hàng thấy thương hiệu khác lạ so với các thương hiệu cạnh tranh khác. Ngoài ra, người điều tra có thể dùng kỹ thuật tương tự để xác định những liên tưởng tích cực và độc đáo mà các nhà marketing mong muốn gắn với thương hiệu của họ để từ đó đánh giá các liên tưởng đó đối với khách hàng. Nghiên cứu định lượng Sau khi xác định được những liên tưởng gắn liền với thương hiệu và hình dung sơ bộ về sức mạnh, tầm quan trọng và tính độc đáo của chúng nhờ phương pháp định tính, phương pháp định lượng sẽ giúp người điều tra có cái nhìn rõ ràng hơn và hiểu sâu sắc hơn những đóng góp tiềm năng của từng liên tưởng vào tài sản thương hiệu, bằng cách đánh giá ít nhất một trong ba khía cạnh sức mạnh, tầm quan trọng và tính độc đáo của chúng.

18

Một trong những cách được ưa dùng nhất để thực hiện việc này là lập bảng khảo sát, trong đó yêu cầu khách hàng cho thang điểm (theo hệ thống Thang đo Likert) đối với từng liên tưởng được liệt kê trong bảng điều tra về ba khía cạnh sức mạnh, tầm quan trọng và tính độc đáo. Trong điều kiện lý tưởng, những liên tưởng được liệt kê trong bảng điều tra nên có tính bao phủ tương đối mọi thuộc tính và lợi ích của thương hiệu.

2.4 Vấn đề thương hiệu đối với các trường đại học Có một thực tế hầu như ai cũng nhận thấy là thế giới đã và đang chứng kiến sự phát triển chóng mặt của nền giáo dục đại học trên phạm vi toàn cầu, đặt các trường đại học vào một môi trường mới đòi hỏi phải thay đổi tư duy truyền thống rằng giáo dục không phải và không nên là một phần trong guồng quay của nền kinh tế thị trường. Thực tế, các trường đại học đang gặp sức ép phải “cung cấp chất lượng giáo dục cao, xây dựng uy tín lớn, thành công trong tuyển sinh, tăng vị thế cạnh tranh, cung cấp các chương trình đào tạo có thiết kế tốt và hợp thời, lại có sức mạnh về tài chính” (Beneke, 2011). Việc này đã buộc các nhà quản lý tại các trường đại học bắt đầu nhận ra rằng họ cần phải hoạt động như trong một ngành kinh doanh và sử dụng những chiến lược lâu dài để tiếp thị cho những dịch vụ mà họ cung cấp.

2.4.1 Thương mại hóa giáo dục đại học Tác giả J.H. Beneke trong bài báo tiêu đề “Tiếp thị trường đại học đến các sinh viên tương lai” đăng trên Tạp chí Quốc tế về Kinh danh và Quản trị (2011) đã tổng hợp rất chi tiết về những quan điểm của các nhà nghiên cứu trong ngành giáo dục cũng như kinh tế đối với thực trạng thương mại hóa giáo dục đại học. Có thể nói hầu hết đều công nhận hiện tượng này và xem đó là một sự phát triển hợp lý. Chẳng hạn như, Liu (1998) nhận định rằng, dưới sức ép của việc thu được lượng tài lực đủ dồi dào để duy trì và phát triển, giáo dục đại học đang trở thành một “ngành kinh doanh lớn”. Đồng tình với ý kiến này, Zemsky (2001) cho rằng “sinh viên đang sử dụng sức mạnh mua sắm của mình để quyết định những gì họ muốn học, các khoa và bộ môn thì trở nên vô cùng nhạy bén với những thứ họ có thể bán được [...], và công tác quản lý thì áp dụng những nguyên lý và thực tiễn của kinh doanh nhằm thu được hiệu quả lớn hơn nữa. Đâu đâu cũng nghe thấy từ “cạnh tranh” – cạnh tranh để thu hút sinh viên, cạnh tranh để tuyển dụng các nhà giáo ưu tú, cạnh tranh để giành nguồn tài trợ các đề tài nghiên cứu, cạnh tranh để được hợp tác và liên kết với các tổ chức uy tín và các nhà 19

tài trợ, v.v... Giáo dục đại học giờ đây rất coi trọng thị trường”. Trong bối cảnh đó, các trường đại học có số lượng lưu học sinh lớn dần được gọi là “các doanh nghiệp xuất khẩu” (Gatfield, 1998), các khóa học được gọi lại “sản phẩm giáo dục” (Adler, 1998), các phương pháp giảng dạy mới như các khóa học trực tuyến là “phương thức giao hàng” (Gatfield, 1998), các trường đại học khác là “đối thủ cạnh tranh” (Landrum et al, 1998), còn những người có khả năng trở thành sinh viên trong tương lai thì được coi là “khách hàng” (Browne et al, 1998), và những hoạt động đánh giá xem các trường đại học thỏa mãn nhu cầu của sinh viên tới mức độ nào được liên hệ đến hoạt động “thỏa mãn khách hàng” (Licata và Maxham, 1998). Đây là những minh chứng cho thấy sự xâm nhập của các nguyên tắc lý thuyết trong kinh doanh vào giáo dục đại học. Theo Beneke (2011) thì hoạt động tiếp thị được đưa vào lĩnh vực giáo dục đại học nhằm hai mục đích chính là (1) thu hút những sinh viên tốt nhất, cũng như, ở cấp độ thấp hơn, thu hút những cán bộ giảng viên tốt nhất (tức nhân lực); đồng thời (2) thu hút nguồn kinh phí tài trợ của chính phủ, tư nhân và quốc tế (tức tài lực). Và để đạt những mục tiêu này thì rất nhiều người cho rằng nhiệm vụ chủ yếu của các nhà tiếp thị giáo dục đại học chính là xây dựng và quảng bá thương hiệu cho trường đại học, hoàn toàn tương tự như những gì đang diễn ra trong thế giới kinh doanh và mọi doanh nghiệp, nơi mà thương hiệu được coi là (một trong những) tài sản lớn nhất.

2.4.2 Thương hiệu đại học 2.4.2.1 Bàn về định nghĩa Từ khi khái niệm thương hiệu của trường đại học được nêu lên trong bối cảnh nền giáo dục đại học ngày càng mang tính thị trường và được thương mại hóa, thì có nhiều học giả đã đưa ra những định nghĩa của mình về “thương hiệu đại học”. McNally và Speak (2002)7 định nghĩa thương hiệu của trường đại học là “cảm nhận hoặc cảm xúc mà một người đã mua hoặc một người mua tương lai lưu giữ, mô tả những trải nghiệm liên quan đến việc tiếp xúc với sản phẩm và dịch vụ của một cơ sở đào tạo”. Bulotaite (2003) 8 cho rằng “khi nhắc đến tên của một trường đại học thì lập tức nó sẽ gợi ra ‘những liên tưởng, cảm xúc, hình ảnh và diện mạo,’ và rằng nhiệm vụ của việc xây dựng thương hiệu đại học chính là ‘xây dựng, quản lý và phát triển những ấn tượng đó.” Trong khi đó, bài nghiên cứu “Best Practices in Institutional Positioning” của tổ chức Hanover 7 8

Theo Beneke (2011) Theo Chapleo (2008)

20

Research (2010), trích định nghĩa của Ibid, cho rằng trong bối cảnh giáo dục đại học, một thương hiệu có thể được diễn tả là “một cái tên, một hình ảnh, một mô tả hấp dẫn về một tổ chức có khả năng nắm bắt bản chất của giá trị mà trường đại học cung cấp.” Có thể thấy những định nghĩa này không khác nhiều lắm so với định nghĩa về thương hiệu nói chung, khi nhấn mạnh vào cả yếu tố hữu hình và vô hình của thương hiệu đại học. Bởi giáo dục đại học được nhìn nhận là một ngành kinh doanh dịch vụ, và tên của trường đại học tương đương với một thương hiệu, nên cũng như các ngành dịch vụ khác, mục tiêu của việc xây dựng thương hiệu đại học chính là tối ưu tài sản thương hiệu. Áp dụng mô hình CBBE của Keller (2008), việc đánh giá tài sản thương hiệu đối với trường đại học có thể thực hiện được, trong đó nguồn của tài sản thương hiệu đại học cũng bao gồm hai nhân tố cấu thành chính như đã trình bày ở phần trước là sự “nhận biết thương hiệu” (khả năng nhớ ra và nhận biết thương hiệu đại học trong những hoàn cảnh khác nhau của “khách hàng”) và “hình ảnh thương hiệu” (những liên tưởng gắn liền với thương hiệu của đại học trong tâm trí “khách hàng”), trong đó có thể nói hình ảnh thương hiệu đóng vai trò quan trọng hơn trong việc giúp tạo ra tài sản thương hiệu hay nói cách khác là thành công cho thương hiệu trường đại học. 2.4.2.2 Những nhân tố ảnh hưởng đến thương hiệu của trường đại học Các học giả trên thế giới có một số cách tiếp cận khác nhau khi bàn đến những nhân tố ảnh hưởng đến thương hiệu đại học, hay nói cách khác là tạo sự khác biệt lên tài sản thương hiệu của trường đại học, nhưng nhìn chung hầu như tất cả đều đồng tình về “bản chất đa diện” của thương hiệu đại học (Beneke, 2011) và sự phức tạp trong việc xác định các nhân tố ảnh hưởng đến nó. Theo tổng hợp của Beneke (2011), Kotecha (2003) đã chỉ ra những đối tượng, sản phẩm và ấn tượng có tác động đến thương hiệu đại học trong Error: Reference source not found dưới đây, minh họa cụ thể tính đa diện của thương hiệu đại học. Theo đó, những nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến thương hiệu của một trường đại học có thể kể đến là: cách ứng xử của hàng ngàn sinh viên và cán bộ giảng viên, những thành tựu nghiên cứu của các ngành đào tạo, tình trạng cơ sở hạ tầng và vật chất cũng như bảng chỉ dẫn, các chiến dịch quảng cáo của từng khoa nói riêng và cả trường nói chung, các sự kiện và các chương trình cộng đồng do các khoa và trường tổ chức, các dịch vụ và cơ sở vật

21

chất hỗ trợ cho sinh viên, và kết quả tốt nghiệp phản ánh năng lực đào tạo của nhà trường cũng như khả năng chi trả học phí của sinh viên, v.v...

Hệ thống nhận diện

Kết quả nghiên cứu Những dấu hiệu đặc trưng

Quan hệ công chúng Gắn kết với cộng đồng Quảng cáo

Hình thức và thái độ của Thương hiệu

cán bộ nhân viên Tỷ lệ tốt nghiệp Danh tiếng sinh viên

Hỗ trợ sinh viên Học bổng và Hợp tác

Cơ sở hạ tầng

Hình 2. Bản chất đa diện của thương hiệu đại học. (Nguồn: Beneke, 2011) Các tác giả Mourad, Ennew và Kortam (2010), trong bài nghiên cứu chung về vai trò của thương hiệu trong marketing dịch vụ giáo dục đại học với bối cảnh nghiên cứu là Ai Cập, cũng đưa ra một danh sách khác về các nhân tố ảnh hưởng đến tài sản thương hiệu đại học như trong Bảng 1, dựa trên phân loại các liên tưởng thương hiệu do Vorhies’ (1997) đề xuất (gồm bốn loại là các thuộc tính biểu tượng, các thuộc tính của dịch vụ, các thuộc tính của người cung cấp dịch vụ và các thuộc tính của khách hàng). Bảng 1. Các nhân tố ảnh hưởng đến tài sản thương hiệu trong dịch vụ giáo dục đại học

22

Các nhân tố tác động đến tài sản thương hiệu nói chung

Các nhân tố tác động đến tài sản thương hiệu trong giáo dục đại học

Quan hệ khách hàng – cán bộ nhân viên

Hiệu năng các hoạt động học tập và ngoài học tập Công tác hỗ trợ sinh viên

Quy mô của doanh nghiệp

Quy mô của trường đại học trực tiếp ảnh hưởng đến danh tiếng và xếp hạng của trường trên thị trường

Mức độ phổ biến thông tin

Thông tin chương trình đào tạo Chương trình ngoại khóa Các chương trình quảng cáo, tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông...

Chất lượng, độ phổ biến/khả năng tiếp cận, độ tin cậy và ổn định của dịch vụ

Cấu trúc chương trình đào tạo Thư viện Cơ sở vật chất đào tạo Cơ sở vật chất chung Hỗ trợ nơi ăn ở Hoạt động thể thao Phòng thí nghiệm Các khóa học được cung cấp Chất lượng giảng dạy...

Chi phí

Giá cả là nhân tố mấu chốt trong lĩnh vực đào tạo tư thục/dân lập, có ảnh hưởng đến sự lựa chọn của học sinh và phụ huynh. Ngoài ra chi phí phần nào phản ánh chất lượng của dịch vụ đào tạo.

Cá tính và lối sống

Môi trường sống chung tại trường đại học (Nguồn: Mourad et al, 2010)

Có thể thấy rằng những nhân tố ảnh hưởng đến thương hiệu đại học mà các tác giả đưa có sự tương đồng khá lớn với các thuộc tính và lợi ích thuộc hai khối tạo dựng thương hiệu hiệu năng và hình tượng thương hiệu mà Keller (2008) đưa ra, mặc dù một số thuộc tính và lợi ích trong số đó không được áp dụng do đặc thù của loại hình dịch vụ mà các trường đại học cung cấp. Như vậy, nhiệm vụ của trường đại học là phải thường xuyên quản lý chặt chẽ những hoạt động gắn liền với các nhân tố này, để đảm bảo rằng khách hàng hiện tại cũng như khách hàng tương lai nói riêng và cộng đồng nói chung có được cảm nhận tích cực về những nhân tố đó. Nói cách khác, những nhân tố được liệt kê ở trên là cơ sở để các trường đại học xác định những liên tưởng mà họ muốn gắn với

23

hình ảnh thương hiệu của mình, và cũng là một nền tảng để tôi bước đầu vạch ra những liên tưởng cụ thể đối với Đại học Thủy Lợi để tiến hành điều tra và nghiên cứu.

2.5 Vấn đề thương hiệu đại học tại Việt Nam Do đặc trưng của tiến trình phát triển lịch sử, nền giáo dục đại học Việt Nam trong một thời gian dài hoạt động dưới sự quản lý và bảo hộ bao cấp của Nhà nước. Vào những năm 80 và 90, có thể nói 100% các trường đại học đều là đại học công lập, và được coi là “các tổ chức phi thương mại” (Nguyễn Viết Lâm, 2009). Mọi hoạt động của các trường đại học công lập từ chương trình đào tạo, chỉ tiêu tuyển sinh, điểm sàn tuyển sinh, mức học phí, tuyển dụng và quản lý nhân sự cho đến kinh phí hoạt động hoặc phát triển cơ sở hạ tầng và vật chất đều do Nhà nước quyết định theo cơ chế xin-cho. Thậm chí có một thời gian, đầu ra của các sinh viên tốt nghiệp từ các trường đại học cũng được Nhà nước xem xét và phân bổ dựa trên nhu cầu nhân lực của các ngành và địa phương trên cả nước. Khi đó nguyện vọng chủ quan của những người tốt nghiệp đóng vai trò khá nhỏ trong việc định đoạt nơi lập nghiệp tương lai của bản thân. Với cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp đó, cộng thêm một thực tế là số trường đại học quá ít ỏi so với nhu cầu học tập của những đối tượng vừa tốt nghiệp các trường trung học, các trường đại học công lập ở Việt Nam trong giai đoạn những năm 80 và 90 hầu như không biết đến khái niệm cạnh tranh, càng xa lạ với khái niệm “thương hiệu đại học”, và nhiệm vụ chủ yếu của họ chỉ là tập trung đào tạo nguồn nhân lực và thực hiện các nghiên cứu theo yêu cầu của Nhà nước. Thực trạng trên kéo dài hàng chục năm, ngay cả khi Việt Nam bước vào giai đoạn “đổi mới”, với sự xâm nhập nhanh chóng và sâu sắc của các quy tắc nền kinh tế thị trường vào mọi ngóc ngách đời sống của người dân, thì nền giáo dục đại học Việt Nam nói chung vẫn chưa thật sự có những thay đổi thực chất. Chính việc thiếu sự cạnh tranh giữa các trường đại học và tư tưởng phần nào mang tính độc quyền “người học cần nhà trường, chứ nhà trường không cần người học” bởi sự chênh lệch quá lớn giữa cầu và cung, đã dẫn đến chất lượng giáo dục dần xuống cấp, các chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy lỗi thời do chậm nhận thấy nhu cầu phải đổi mới, một thực trạng mà xã hội Việt Nam đã nhìn nhận và coi là đáng báo động trong nhiều năm trở lại đây.

24

Dưới sức ép của xã hội và yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực của đất nước, trong những năm gần đây, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện những thay đổi đáng kể trong cơ chế quản lý giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng, phát động rầm rộ chiến dịch đổi mới về mọi mặt, với mục tiêu tạo động lực thúc đẩy để nâng cao chất lượng giáo dục cho các trường đại học công lập. Theo đó, các trường đại học công lập giờ đây tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong nhiều hoạt động của mình, thậm chí là tự chủ hoàn toàn về kinh phí để tổ chức các hoạt động. Chính lúc này, chân dung đại học công lập Việt Nam với tư cách là một doanh nghiệp dịch vụ càng trở nên rõ hơn (Nguyễn Viết Lâm, 2009). Trong Hội nghị sơ kết một năm rưỡi thực hiện Chỉ thị 269/CT-TTg về đổi mới quản lý giáo dục đại học 2010-2012, Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân cũng đã khẳng định: “dạy học cũng giống như làm dịch vụ, phải tự đánh giá và đổi mới” (2011)9. Cùng lúc đó, do Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng về mọi mặt với thế giới, nền giáo dục Việt Nam chứng kiến làn sóng xâm nhập của các trường đại học quốc tế, sự ra đời ngày càng nhiều của các trường đại học dân lập cũng như xu hướng chuộng du học nước ngoài của đại bộ phận các học sinh xuất sắc và các con em thuộc những gia đình khá giả. Những điều này đã tạo ra một môi trường mang tính cạnh tranh ngày càng cao cho các trường đại học, buộc mỗi trường bắt đầu phải nhìn nhận nhu cầu phát triển và quảng bá bản thân nhằm thu hút học sinh, đặc biệt là những học sinh khá giỏi, để ngược lại có thể nâng cao chất lượng và uy tín của nhà trường. Trong bối cảnh như vậy, khái niệm “thương hiệu đại học” bắt đầu được các học giả và các nhà hoạch định chính sách Việt Nam nhắc đến. Năm 2004, Tạp chí Khoa học của Đại học Cần Thơ đã đăng bài viết “Thương hiệu đại học Việt Nam, tại sao không?” của tác giả Đào Văn Khanh, gần như là bài viết đầu tiên phân tích về thực trạng, nguyên nhân, những khó khăn vướng mắc và đề ra một số giải pháp để xây dựng thương hiệu đại học Việt Nam. Từ đó cho đến nay, tầm quan trọng của thương hiệu đại học ngày càng được coi trọng tại Việt Nam. Minh chứng hùng hồn nhất là đã có có gần chục Hội thảo lớn nhỏ đã được tổ chức trên khắp cả nước nhằm thảo luận về vấn đề phát triển thương hiệu đại học. Chẳng hạn như Hội thảo quốc tế “Xây dựng thương hiệu trong giáo dục đại học: Kinh nghiệm thực tiễn trong bối cảnh toàn cầu hóa” được tổ chức vào tháng 8/2009 với sự tham dự của 50 chuyên gia nước ngoài đến từ 25 trường đại học 9

Theo bài báo “Phó TT Nguyễn Thiện Nhân: Phải coi dạy học như làm dịch vụ!” đăng trên trang web

fpt.edu.vn ngày 01/11/2011.

25

cùng cán bộ quản lý, nhà giáo dục từ hơn 100 trường đại học cao đẳng trong nước. Tại Hội thảo, nhiều người đã nhất trí rằng “xây dựng thương hiệu là yếu tố cần thiết để tồn tại trong bối cảnh cạnh tranh trong nước cũng như khu vực, quốc tế” 10. Gần đây hơn là Hội thảo “Đánh giá - xếp hạng các trường đại học và cao đẳng Việt Nam” do Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam cùng Đại học Huế đã tổ chức vào tháng 4/2010 với sự tham gia của 280 trường đại học và cao đẳng trên toàn quốc, bàn luận về tầm quan trọng và những tiêu chí đánh giá và xếp hạng các trường, tạo cơ hội để các trường phát huy thế mạnh và từng bước “tạo dựng thương hiệu”11. Mặc dù tầm quan trọng của thương hiệu đại học đã được nhìn nhận và nhấn mạnh, nhưng các trường đại học Việt Nam vẫn còn lúng túng tìm hướng đi đúng đắn trong việc đánh giá và xây dựng thương hiệu của mình. Thực tế, rất nhiều trường đại học hiện nay vẫn đánh giá “độ hot” của mình theo những tiêu chí truyền thống như tỷ lệ chọi, điểm chuẩn tuyển sinh... (Vũ Thị Phương Anh, 2010). Đây cũng là căn cứ chung mà một bộ phận lớn trong xã hội Việt Nam vẫn dựa vào để xác định những trường đại học hàng đầu. Tuy vậy, phải nói rằng mặc dù những tiêu chí này cũng là biểu hiện của sức mạnh thương hiệu đại học, nhưng đó chỉ là những biểu hiện bề ngoài, mang tính hệ quả, chứ chưa phải là cách đo lường chính xác và mang tính khoa học về tài sản thương hiệu đại học. Những tiêu chí đó không chỉ ra được những cảm nhận cụ thể và chính xác của “khách hàng” (sinh viên, nhà tuyển dụng, và rộng hơn là xã hội) đối với các trường đại học, càng không chỉ ra được điểm mạnh hoặc điểm yếu của hình ảnh nhà trường trong mắt “khách hàng” để có thể giúp các trường vạch ra những sách lược phù hợp và hiệu quả nhằm cải thiện và nâng cao thương hiệu.

2.6 Đại học Thủy Lợi 2.6.1 Một số nét chính về Đại học Thủy Lợi Đại học Thủy Lợi là một trường đại học công lập, nằm dưới sự quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, và được công nhận là trường kỹ thuật đầu ngành trong lĩnh vực tài nguyên nước. Trường ra đời vào năm 1959 với tên chính thức đầu tiên là Học viện Thủy lợi và Điện lực, và khi đó được Nhà nước giao cho nhiệm vụ chính là 10

Theo bài báo “Xây dựng thương hiệu đại học là cấp thiết” đăng trên trang web nld.com.vn ngày

11/08/2009. 11 Theo bài báo “Tạo thương hiệu ĐH, CĐ qua đánh giá, xếp hạng từng trường” đăng trên trang web dantri.com.vn ngày 18/04/2010.

26

đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học về lĩnh vực thủy lợi và thủy điện phục vụ yêu cầu của đất nước. Do nhu cầu nhân lực ngày càng đa dạng của đất nước, công tác đào tạo của Đại học Thủy Lợi đã chuyển từ chỗ tập trung vào những chuyên ngành hẹp về kỹ thuật thuỷ lợi sang một chiến lược đào tạo đa ngành trong nhiều lĩnh vực, gồm thuỷ lợi, thuỷ điện, cơ khí, giao thông, xây dựng, kết cấu, cấp thoát nước, công nghệ thông tin, tài nguyên, môi trường, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, kinh tế và biến đổi khí hậu ở nhiều cấp bậc từ Cao đẳng, Đại học đến Thạc sĩ, Tiến sĩ. Hiện nay trường đang triển khai 17 ngành đào tạo, và trong vài năm tới sẽ tiếp tục mở thêm một số ngành mới khác. Bên cạnh đó, từ năm 2006, Đại học Thủy Lợi đã tiến hành nhập khẩu chương trình đạo tạo từ các trường đại học của Mỹ như Đại học Bang Colorado và Đại học Arkansas, với giáo trình được chuyển ngữ hoàn toàn từ giáo trình của hai trường này. Đồng thời, đã có hai chương trình tiên tiến đào tạo hai ngành Kỹ thuật Tài nguyên nước và Kỹ thuật Công trình được mở và giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh. Quy mô đào tạo của Đại học Thủy Lợi được mở rộng đáng kể theo từng năm, đặc biệt là trong những năm gần đây. Chỉ tiêu tuyển sinh đại học chính quy tăng vọt từ 1.400 năm 2006 lên 2.615 năm 2010. Tính riêng trong hai năm học vừa qua, quy mô đào tạo trình độ đại học đã tăng từ 10.074 sinh viên (năm học 2009-2010) lên 14.441 sinh viên (năm 2010-2011). Dự kiến quy mô đào tạo của Đại học Thủy Lợi cho mọi trình độ sẽ tiếp tục tăng mạnh trong những năm tới, đặt một sức ép không nhỏ lên công tác tuyển sinh. Bảng 2 dưới đây thể hiện ước tính quy mô đào tạo Đại học chính quy trong năm 2011 và 5 năm tới. Bảng 2. Dự kiến chỉ tiêu tuyển sinh và quy mô đào tạo đại học chính quy giai đoạn 2011-2015 Năm

Chỉ tiêu tuyển sinh

Quy mô đào tạo

2011

2.615

11.387

2012

2.740

12.383

2013

2.840

13.296

2014

2.840

13.785

2015

2.940

13.975

(Nguồn: Dự thảo Báo cáo tổng kết Chiến lược 2006-2010, Đại học Thủy Lợi, 2011)

27

Về công tác phát triển nguồn nhân lực, theo thống kê mới nhất, tổng số cán bộ giảng dạy hiện nay của Đại học Thủy Lợi là 625 người (tỷ lệ 1/20 sinh viên); trong đó thạc sĩ chiếm 45%, tiến sĩ 30%; 50% giảng viên sử dụng được tiếng Anh chuyên môn, trong đó 20% giảng dạy được bằng tiếng Anh. Tổng số cán bộ quản lý là 250 với hơn 70% đã qua đào tạo nghiệp vụ lĩnh vực được giao quản lý. Cơ sở đào tạo tại Hà Nội của Đại học Thủy Lợi có vị trí khá gần trung tâm thành phố với khuôn viên rộng và nhiều cây xanh. Cơ sở vật chất của trường mang tính đặc thù của một trường về kỹ thuật tài nguyên nước, gồm hơn 90 phòng học và giảng đường được lắp đặt đầy đủ máy chiếu, 10 phòng thí nghiệm độc lập và 6 cơ sở thí nghiệm khác có trang bị các dụng cụ và thiết bị thí nghiệm chuyên dụng. Trường có 5 khu nhà KTX, phục vụ cho hơn 40% tổng số sinh viên, trong đó có một nhà ký túc xá mới đưa vào sử dụng, được đánh giá là “chung cư hiện đại dành cho sinh viên” và là một trong những ký túc xá đại học tốt nhất tại Hà Nội12. Đại học Thủy Lợi có cơ sở hạ tầng mạng khá mạnh. Trong những năm gần đây, hầu hết các hoạt động quản lý đào tạo, quản lý sinh viên và trao đổi công việc giữa các cán bộ giảng viên đều được thực hiện qua hệ thống mạng nội bộ. Toàn bộ giảng viên và sinh viên đều có tài khoản email riêng. Sinh viên được cấp tài khoản quản lý quá trình học tập, nộp học phí và kết quả học tập được cập nhật trực tiếp trên mạng. Bên cạnh đó, các kết quả học tập của sinh viên đều được gửi về trực tiếp cho gia đình cuối mỗi học kỳ. Ngoài ra, nhiều câu lạc bộ cho sinh viên được thành lập và duy trì hoạt động tại Đại học Thủy Lợi như CLB Tiếng Anh, Tin học, Ghi ta, Bóng đá, Bóng chuyền, Ban nhạc sinh viên... Đặc biệt, phong trào sinh viên của Nhà trường còn đạt nhiều thành tích gây tiếng vang trong các cuộc thi dành cho sinh viên như đạt quán quân trong gameshow nổi tiếng dành cho sinh viên toàn quốc là SV96 (1996), hai lần vô địch Giải bóng đá sinh viên toàn quốc (2004 và 2011)...

2.6.2 Tình hình phát triển thương hiệu Đại học Thủy Lợi Có thể nói Đại học Thủy Lợi là một trong những trường đại học công lập đầu tiên nhìn nhận tầm quan trọng của “thương hiệu đại học”. Điều này thể hiện trong “Chiến lược Phát triển Đại học Thủy Lợi giai đoạn 2006-2020” (2006), với mục tiêu chiến lược của Đại học Thủy Lợi được xác định là “phấn đấu trở thành một trong 10 trường đại học 12

Theo chùm bài “Ký túc xá nào tốt nhất Hà Nội?” của trang web http://giaoduc.net.vn (11/2011)

28

hàng đầu của Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học chất lượng cao. Tạo dựng được thương hiệu “Đại học Thủy lợi Việt Nam” có uy tín, quan hệ quốc tế rộng rãi đa phương, đa dạng đủ sức cạnh tranh, hợp tác bình đẳng với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới và chủ động hội nhập.” Từ khi Chiến lược được phê duyệt vào năm 2006 đến nay, mọi hoạt động của Đại học Thủy Lợi đều nhằm hướng tới mục tiêu này. Bên cạnh việc đổi mới toàn diện từ bên trong, như nâng cấp chương trình đạo tạo, mở nhiều ngành mới, nâng cao năng lực cán bộ giảng viên, phát triển cơ sở hạ tầng, hỗ trợ hoạt động cho sinh viên..., trường đã triển khai nhiều công tác tuyên truyền, quảng bá bên ngoài nhằm phổ biến thương hiệu “Đại học Thủy Lợi” đến nhiều đối tượng. Các mối quan hệ với các cựu sinh viên đang công tác trên trên khắp cả nước được Đại học Thủy Lợi chú trọng duy trì và phát triển, đặc biệt chú trọng đến những cựu sinh viên có thành tích đóng góp lớn cho sự phát triển của đất nước, như Ông Lê Văn Kiểm, chủ tịch công ty Long Thành, vừa được Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng lao động, và những cựu sinh viên có sự nghiệp thành đạt và địa vị cao trong xã hội. Những nhân vật nổi bật này được xem là minh chứng thực tế cho chất lượng đào tạo của Đại học Thủy Lợi, do đó, có thể giúp nâng cao hình ảnh của trường. Đại học Thủy Lợi cũng thường xuyên sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình và báo chí để quảng bá cho mình, bên cạnh việc tham gia nhiều hoạt động giao lưu văn nghệ, thể thao, tình nguyện dành cho giảng viên và sinh viên trên phạm vi cả nước. Trong 4-5 năm trở lại đây, Đại học Thủy Lợi đã bắt đầu áp dụng một phương thức mới để quảng bá cho thương hiệu của mình, là cử sinh viên đang học tại trường về trường cấp III cũ của họ để tuyên truyền cho các học sinh tại đó về mọi thông tin liên quan đến trường, đặc biệt là các thông tin tuyển sinh. Hoạt động này được tổ chức đều đặn vào dịp Tết nguyên đán hàng năm và thu hút sự tham gia của hàng ngàn sinh viên, nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quảng bá và thu hút thêm học sinh nộp đơn thi tuyển vào trường. Mặc dù có những hoạt động thiết thực như trên trong công tác nâng cao hình ảnh thương hiệu, nhưng tương tự như tình trạng chung của công tác xây dựng thương hiệu của các trường đại học tại Việt Nam, Đại học Thủy Lợi vẫn chưa có cơ chế đánh giá khoa học đáng tin cậy về thương hiệu của mình để xác định chính xác vị trí của mình 29

hiện nay trên bản đồ giáo dục đại học Việt Nam. Điều đó đặt ra một câu hỏi cần giải đáp là khi nào thì Đại học Thủy Lợi được coi là đã đạt được mục tiêu lọt vào danh sách 10 trường đại học tốt nhất Việt Nam nêu trong Chiến lược. Đề tài nghiên cứu này hi vọng sẽ tìm hiểu được một phương pháp tiềm năng cho vấn đề này.

2.7 Các đề tài nghiên cứu liên quan Do khái niệm “thương hiệu đại học” còn khá mới mẻ tại Việt Nam nên không có nhiều nghiên cứu được thực hiện trong lĩnh vực này, và đa phần các nghiên cứu đã công bố cho đến nay đều đưa ra những góc nhìn khá rộng và chung chung về thương hiệu đại học và công tác xây dựng thương hiệu đại học, chứ không đi sâu nghiên cứu cụ thể về một khía cạnh nào về thương hiệu đại học, cũng không đánh giá riêng đối với hình ảnh thương hiệu đại học. Chẳng hạn như đề tài Nghiên cứu khoa học cấp bộ “Xây dựng và phát triển thương hiệu của các trường đại học công lập khối kinh tế ở Việt Nam” do PGS.TS. Nguyễn Viết Lâm làm chủ nhiệm được hoàn thành vào tháng 6/2009. Đề tài ứng dụng lý thuyết về thương hiệu sản phẩm để xác định các thành phần của thương hiệu đại học, và vạch ra các hoạt động cơ bản phải thực hiện để xây dựng thương hiệu đại học mạnh. Dựa trên đó, đề tài phân tích và đánh giá thực trạng xây dựng và phát triển thương hiệu của các trường đại học công lập khối kinh tế ở Việt Nam, và cuối cùng đưa ra định hướng chiến lược và các giải pháp chung cho vấn đề này. Đề tài “Phát triển Đại học hiệu của trường Đại học Thủy Lợi” của ThS. Đoàn Thị Hường, một giảng viên của Đại học Thủy Lợi, hoàn thành tháng 7/2010, cũng có cách tiếp cận tương tự. Đề tài tìm cách hệ thống hóa các lý luận về thương hiệu và áp dụng vào thương hiệu của trường đại học, mà tác giả gọi là “đại học hiệu”. Trên cơ sở lý thuyết đó, đề tài đánh giá thực trạng của việc phát triển đại học hiệu của Đại học Thủy Lợi và cuối cùng kiến nghị một số giải pháp phù hợp. Một đề tài có chủ đề nghiên cứu khá giống với đề tài của tôi là đề tài “Hình ảnh thương hiệu trường đại học dưới mắt sinh viên: Kinh nghiệm từ ĐHQG-HCM” của TS. Vũ Thị Phương Anh, Giám đốc Trung tâm Khảo thí và Đánh giá chất lượng ĐH Quốc gia TPHCM, được trình bày tại Hội thảo quốc tế “Xây dựng thương hiệu trong giáo dục ĐH: Kinh nghiệm thực tiễn trong bối cảnh toàn cầu hóa” do Bộ GD-ĐT, Trung tâm Đào tạo khu vực của SEAMEO tại Việt Nam và Trường ĐH Nha Trang tổ chức vào tháng 30

8/2009. Đề tài này thu hẹp phạm vi nghiên cứu vào đánh giá hình ảnh thương hiệu của Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, và đối tượng khảo sát của đề tài là sinh viên đang học tập tại các trường thành viên của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, đề tài có nhược điểm là không trình bày rõ ràng và có hệ thống các lý thuyết về các thành phần của hình ảnh thương hiệu, cũng không giải thích rõ ràng cách thức đánh giá hình ảnh thương hiệu. Điều này đặt ra câu hỏi về tính khoa học và chính xác của phương thức đánh giá mà đề tài áp dụng, cũng như ý nghĩa rút ra được từ kết quả đánh giá. Hơn nữa, mô hình được áp dụng để đánh giá có vẻ không phải là mô hình CBBE của Keller. Đề tài “Hình ảnh thương hiệu Đại học Thủy Lợi đối với học sinh cấp III” sẽ tập trung cụ thể về cách đánh giá hình ảnh thương hiệu áp dụng mô hình CBBE của Keller (2008), vừa để trả lời câu hỏi về cảm nhận thực tế của học sinh cấp III đối với hình ảnh thương hiệu Đại học Thủy Lợi, vừa là một cách kiểm chứng hiệu quả của phương pháp đánh giá hình ảnh thương hiệu do Keller đề xuất, tạo cơ sở để Đại học Thủy Lợi đánh giá hình ảnh thương hiệu của mình trong mắt những đối tượng khách hàng khác, cũng như các trường Đại học khác có thể tham khảo và áp dụng đánh giá hình ảnh thương hiệu của mình.

31

3 CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Dựa trên lý thuyết đã trình bày về phương pháp đánh giá hình ảnh thương hiệu theo mô hình CBBE của tác giả Keller (2008), nghiên cứu này được chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn 1 áp dụng phương pháp nghiên cứu định tính bán cấu trúc để xác định những liên tưởng thương hiệu có thể có đối với thương hiệu Đại học Thủy Lợi. Sau đó, phương pháp nghiên cứu định lượng được áp dụng ở giai đoạn 2 nhằm đánh giá sức mạnh, tầm quan trọng và tính độc đáo của những liên tưởng đã thu thập được trong giai đoạn 1.

3.1 Giai đoạn định tính Trong giai đoạn định tính, các cuộc phỏng vấn cá nhân có tính bán cấu trúc sẽ được thực hiện với những đối tượng khác nhau nhằm tạo sự phong phú về cách tiếp cận và cảm nhận đối với hình ảnh thương hiệu của Đại học Thủy Lợi. Những đối tượng này gồm 20 sinh viên đang học tại trường Đại học Thủy Lợi, 20 học sinh cấp III thuộc một số trường cấp III, 20 phụ huynh học sinh cấp III, được chọn theo kỹ thuật lấy mẫu phi ngẫu nhiên theo sự thuận tiện. Mặc dù phụ huynh học sinh cấp III không phải là khách hàng trực tiếp sử dụng dịch vụ của Đại học Thủy Lợi, nhưng họ sẽ là người chi trả học phí nếu tương lai con họ trở thành sinh viên Đại học Thủy Lợi, đồng thời với vai trò là phụ huynh, họ có ảnh hưởng nhất định đến cảm nhận (và quyết định) của con họ đối với Đại học Thủy Lợi. Những đối tượng được phỏng vấn sẽ được hỏi ba câu hỏi chính: 1. Khi nhắc đến Đại học Thủy Lợi, bạn nghĩ đến điều gì? 2. Bạn thích điều gì và không thích điều gì nhất về Đại học Thủy Lợi? 3. Bạn thấy Đại học Thủy Lợi có điểm gì khác so với các trường đại học khác ở Hà Nội? Mục đích của câu hỏi đầu tiên là xác định những liên tưởng mà các đối tượng gắn với thương hiệu Đại học Thủy Lợi. Câu hỏi thứ hai nhằm xác định những liên tưởng có ý nghĩa quan trọng đối với khách hàng. Mục đích của câu hỏi thứ ba là xác định những liên tưởng độc đáo có thể có đối với Đại học Thủy Lợi. Cách đặt câu hỏi có thể thay đổi

32

tùy theo khả năng hiểu ý câu hỏi của người được phỏng vấn, và người trả lời có thể có nhiều câu trả lời cho mỗi câu hỏi. Số lượng những liên tưởng thu thập được từ các cuộc phỏng vấn có thể sẽ rất lớn. Tùy theo kết quả phỏng vấn thực tế, những liên tưởng phù hợp sẽ được chọn lọc, đảm bảo độ bao phủ tương đối những nhân tố ảnh hưởng đến thương hiệu đại học, để đưa vào bảng câu hỏi điều tra triển khai trong giai đoạn nghiên cứu định lượng. Đây là giai đoạn có mục đích chủ yếu là thu thập những liên tưởng có thể gắn với Đại học Thủy Lợi để đưa vào điều tra sâu hơn ở giai đoạn sau nên tính đại diện và ý nghĩa thống kê không được xét đến.

3.2 Giai đoạn định lượng 3.2.1 Tổng thể và mẫu Theo thống kê mới nhất của Tổng cục Thống kê Việt Nam 13, năm 2010 trên địa bàn thành phố Hà Nội có khoảng 201 trường cấp III, với tổng số khoảng 212.842 học sinh theo học. Hiện tại, Tổng cục Thống kê chưa cập nhật số liệu năm 2011 về số lượng các trường cấp III và học sinh cấp III, nhưng theo dự đoán có lẽ hai con số này không có sự thay đổi đáng kể. Do điều kiện nghiên cứu hạn chế, mẫu điều tra được chọn theo phương pháp phi ngẫu nhiên, kết hợp giữa kỹ thuật lấy mẫu thuận tiện và hạn ngạch. Kích cỡ mẫu được chọn là 200-250, với không quá 50 học sinh học cùng một trường cấp III được khảo sát. Các trường cấp III được chọn theo thuận tiện. Quá trình chọn mẫu khảo sát sẽ được trình bày chi tiết hơn trong chương sau.

3.2.2 Công cụ nghiên cứu Giai đoạn này sử dụng phiếu điều tra có cấu trúc, bao gồm hai phần. Phần đầu hỏi thông tin nhân khẩu học về những người tham gia khảo sát như giới tính, lớp và trường của họ. Phần hai bao gồm ba câu hỏi đóng, yêu cầu người trả lời đánh giá theo thang đo Likert từ 1 cho đến 5 về sức mạnh, ý nghĩa quan trọng và tính độc đáo của một số liên tưởng được chọn lọc từ những liên tưởng thu thập được trong giai đoạn định tính. Số lượng các liên tưởng được liệt kê vào bảng câu hỏi để người trả lời đánh giá tùy thuộc vào kết 13

Website http://www.gso.gov.vn

33

quả thu thập của giai đoạn định tính, nhưng để nhận được sự hợp tác nhiệt tình từ phía người trả lời, con số này sẽ không vượt quá 20 liên tưởng. Mẫu bảng câu hỏi điều tra được sử dụng được đính kèm trong Phụ lục 1.

3.3 Phân tích dữ liệu Thống kê mô tả (descriptive statistics) được dùng để mô tả ý nghĩa cơ bản của dữ liệu trong một nghiên cứu (Saunders et al, 2010). Nghiên cứu này đã dùng phương pháp mô tả để giải thích các đặc điểm của người phản hồi, cũng như mô tả xếp hạng của các liên tưởng thương hiệu theo ba khía cạnh. Thống kê suy đoán được sử dụng để đưa ra các suy luận hặc đánh giá về một tổng thể dựa trên cơ sở một mẫu. Giá trị chi bình phương (χ 2) được sử dụng để xác định mối quan hệ giữa giới tính của học sinh cấp III và những đánh giá của họ đối với từng loại liên tưởng và tiêu chí. Các phần mềm thống kê SPSS 17 và Microsoft Excel 2010 được sử dụng để phân tích dữ liệu.

34

4 CHƯƠNG 4. PHÂN TÍCH VÀ KẾT QUẢ 4.1 Đặc điểm nhân khẩu học của các đối tượng tham gia nghiên cứu Như đã đề ra ở phần phương pháp luận, với mục tiêu thu thập những liên tưởng được các đối tượng “khách hàng” khác nhau gắn với thương hiệu “Đại học Thủy Lợi”, giai đoạn một của nghiên cứu được thực hiện với 20 sinh viên hiện đang học tại Đại học Thủy Lợi, 20 học sinh cấp III tại Hà Nội và 20 phụ huynh học sinh cấp III, trong đó số lượng nam và nữ được chọn phỏng vấn là như nhau, còn các thông tin khác là do tình cờ ngẫu nhiên. Bảng 3. Những đối tượng tham gia phỏng vấn Phân loại Sinh viên Năm 1 Năm 2 Năm 3 Năm 4 Nam Nữ Học sinh cấp III Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Nam Nữ Phụ huynh học sinh cấp III Nam Nữ Tổng số người trả lời

Số lượng 20 6 3 5 6 10 10 20 6 3 11 10 10 20 10 10 60

% trong mỗi phân loại 100 30 15 25 30 50 50 100 30 15 55 50 50 100 50 50 -

% trên tổng số người trả lời 33,3 10 5 8,3 10 16,7 16,7 33,3 10 5 18,3 16,7 16,7 33,3 16,7 16,7 100

Trong giai đoạn định lượng, đã có 250 phiếu câu hỏi khảo sát được phát ra tại 5 trường cấp III trên địa bàn Hà Nội, thu lại được 233 phiếu trả lời, trong đó có 227 phiếu hợp lệ. Những phiếu trả lời khảo sát bị loại bỏ là do người trả lời không trả lời quá 50% số câu 35

hỏi hoặc cung cấp những câu trả lời không đáng tin cậy (chỉ chọn một phương án duy nhất, hoặc tô màu các phương án lựa chọn theo hình zigzag, v.v…) Bảng 4. Những học sinh cấp III tại Hà Nội tham gia khảo sát Phân loại Trường Trường THPT Trần Hưng Đạo Trường THPT Yên Hòa Trường PTTH Kim Liên Trường THPT Hồ Xuân Hương Trường PTTH Nguyễn Bỉnh Khiêm Giới tính Nam Nữ Lớp Lớp 10 Lớp 11 Lớp 12 Tổng

Số lượng

%

45 43 47 48 44

19,8 18,9 20,7 21,1 19,4

126 101

55,5 44,5

58 75 94 227

25,6 33 41,4 100

Năm trường cấp III tại Hà Nội được khảo sát là Trường THPT Trần Hưng Đạo, Trường THPT Yên Hòa, Trường PTTH Kim Liên, Trường THPT Hồ Xuân Hương, và Trường PTTH Nguyễn Bỉnh Khiêm, được chọn một cách thuận tiện. 50 phiếu được phát tại mỗi trường vào giờ ra chơi của học sinh, và các nhóm học sinh cùng lớp hoặc cùng khối lớp thường tập trung một chỗ, nên ở mỗi trường thường chỉ thu thập được các câu trả lời phần lớn từ một khối lớp nhất định (xem Hình 1). Tổng số lượng học sinh lớp 12 chiếm 41,4% số học sinh tham gia khảo sát, trong khi lớp 10 và 11 lần lượt chiếm 25,6% và 33%. Người phát phiếu khảo sát cố gắng phân bổ đồng đều các phiếu cho học sinh nam và học sinh nữ nên sự chênh lệch giữa hai nhóm này là không nhiều (55,5% và 44,5%). Để biết thêm thông tin chi tiết về những học sinh đã tham gia khảo sát, xem Phụ lục 2.

36

Hình 1. Số lượng học sinh lớp 10, 11 và 12 tham gia khảo sát tại mỗi trường

4.2 Những liên tưởng gắn với Đại học Thủy Lợi Quá trình phỏng vấn với 60 đối tượng thu được 396 liên tưởng, trong đó số liên tưởng của sinh viên chiếm đến 49,2% (xem Phụ lục 3). Điều này có thể giải thích bằng thực tế là sinh viên Đại học Thủy Lợi có nhiều kiến thức thương hiệu đối với trường hơn là đối tượng học sinh cấp III và phụ huynh của họ. Tổng hợp số liệu thu được, có thể rút ra những liên tưởng thương hiệu đối với Đại học Thủy Lợi như sau.

4.2.1 Những liên tưởng mạnh Khi được hỏi họ nghĩ đến điều gì đầu tiên khi nhắc đến Đại học Thủy Lợi, một số lượng lớn người được phỏng vấn trả lời là “đào tạo về thủy lợi” hoặc “chuyên dạy về các ngành thủy lợi” (chiếm 58,3%). Liên tưởng này xuất phát từ chính tên (thương hiệu) trường nên việc nó gắn kết chặt chẽ với thương hiệu của trường là điều dễ hiểu. Liên tưởng mạnh thứ hai có liên quan đến khuôn viên của trường (38,3%), với miêu tả đi kèm là “đẹp”, “rộng rãi” và “nhiều cây xanh”. Liên tưởng mạnh thứ ba là liên tưởng về ký túc xá của Đại học Thủy Lợi như “ký túc xá đẹp” và “ký túc xá hiện đại”. Điều này có thể là nhờ vào thông tin trên báo mạng về khu KTX mới xây của Đại học Thủy Lợi như đã đề cập ở phần trước.

37

Bảng 5. Những liên tưởng mạnh thu thập qua phỏng vấn Liên tưởng Chuyên đào tạo về thủy lợi Khuôn viên đẹp/rộng rãi/nhiều cây xanh Ký túc xá đẹp/hiện đại Điều kiện học tập /cơ sở vật chất tốt Nước/ngành nước Lịch sử lâu đời / giàu truyền thống Môi trường học tập tốt Chất lượng đào tạo tốt Trường màu đỏ sẫm Công trình đê điều Ngành nghề vất vả Điểm xét tuyển đầu vào không cao Phần lớn sinh viên đến từ nông thôn / phù hợp với những người ở nông thôn Kênh mương/cầu cống Người quen từng/đang học tại trường Vô địch giải bóng đá sinh viên TQ Bảo vệ nghiêm túc/an toàn Cơ sở vật chất kém Nông nghiệp

% trên số người trả lời Hiệu năng Hình tượng 58,3 38,3 28,3 25 16,7 15 11,7 10 10 6,7 6,7 5 5 3,3 3,3 3,3 1,7 1,7 1,7

Từ tổng hợp ở , có thể nhận ra rằng phần lớn các liên tưởng mạnh gắn với Đại học Thủy Lợi đều liên quan đến khía cạnh hiệu năng, chỉ có ba liên tưởng liên quan đến hình tượng liên quan đến chân dung người dùng, lịch sử và kinh nghiệm của người trả lời, trong đó đáng chú ý là liên tưởng về chân dung người dùng. Liên tưởng này được gợi ra từ câu trả lời của 1 sinh viên và 2 phụ huynh học sinh cấp III. Một sinh viên nói rằng: “…Phần lớn các ngành Đại học Thủy Lợi đào tạo liên quan đến nước và thủy lợi. Vì vậy mà đa phần những sinh viên học ở đây đều đến từ nông thôn…” Còn một trong hai phụ huynh nói: “…Đại học Thủy Lợi thì chắc là chuyên dạy về thủy lợi, phù hợp với những người làm nông nghiệp ở nông thôn…”

38

Phụ huynh khác cũng nói điều tương tự. Ngoài ra, một điều đáng chú ý khác là một thuộc tính của Đại học Thủy Lợi được người trả lời có cảm nhận trái ngược nhau, đó là “cơ sở vật chất”. Có 25 người nói rằng Đại học Thủy Lợi có “cơ sở vật chất tốt” hoặc dùng cách diễn đạt khác là “điều kiện học tập tốt”, nhưng có 1 người, cụ thể là một phụ huynh, được phỏng vấn cho rằng Đại học Thủy Lợi có “cơ sở vật chất kém”.

4.2.2 Những liên tưởng có ý nghĩa quan trọng Với câu hỏi bạn thích điều gì và ghét điều gì nhất về Đại học Thủy Lợi, ta thu được nhiều liên tưởng hơn so với câu hỏi trước. Cụ thể những liên tưởng có ý nghĩa quan trọng nhất đối với những người được phỏng vấn là “khuôn viên trường rộng/đẹp/nhiều cây xanh” (40%), “ký túc xá đẹp/hiện đại” (35%), “điểm xét tuyển đầu vào không cao” (33,3%) và “chất lượng đào tạo tốt” (23,3%). Bảng 6. Những liên tưởng có ý nghĩa quan trọng thu được qua phỏng vấn Liên tưởng Khuôn viên trường rộng/đẹp/nhiều cây xanh Ký túc xá đẹp/hiện đại Điểm xét tuyển đầu vào không cao / hợp với sức học Chất lượng đào tạo tốt Môi trường học tập tốt Chế độ khuyến khích học tập tốt / nhiều học bổng Khó xin việc tại Hà Nội Ngành nghề vất vả Điều kiện/cơ sở vật chất học tập tốt Có nhiều ngành nghề để chọn Thầy cô giáo dạy tâm huyết Sinh viên theo dõi quá trình học tập qua Internet Hoạt động ngoại khóa sôi nổi Dễ xin việc đúng ngành học Liên hệ chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình Có chương trình đào tạo hoàn toàn bằng tiếng Anh Vị trí gần nhà Thư viện nhỏ Chương trình học khó Bảo vệ nghiêm túc Học chế tín chỉ Không phù hợp với con gái Đầu ra hẹp

39

% trên số người trả lời Hiệu năng Hình tượng 40 35 33,3 23,3 20 18,3 15 15 15 11,7 11,7 11,7 10 8,3 8,3 6,7 5 5 5 3,3 3,3 3,3 1,7

Có thể nhận thấy rằng một số liên tưởng mạnh như “nước/ngành nước”, “giàu truyền thống/giàu truyền thống” không có ý nghĩa quan trọng cao đối với những người được hỏi. Đồng thời, không có liên tưởng nào liên quan đến hình tượng của Đại học Thủy Lợi được cho là có ý nghĩa quan trọng đối với những người được hỏi. Thêm một điều đáng chú ý là có một số liên tưởng có ý nghĩa quan trọng khá cao nhưng phản ánh cảm nhận không tích cực của những người được phỏng vấn đối với thương hiệu Đại học Thủy Lợi, như “khó xin việc tại Hà Nội” (15%), “ngành nghề vất vả” (15%). Đây là những liên tưởng cần chú ý đến trong quá trình đánh giá ở giai đoạn sau.

4.2.3 Những liên tưởng độc đáo Đối với câu hỏi cuối cùng về những điểm độc đáo của Đại học Thủy Lợi so với các trường đại học khác tại Hà Nội, số lượng liên tưởng thu được giảm đi đáng kể so với hai câu hỏi trước. Có tới 22/60 người, gồm 9 học sinh và 13 phụ huynh, không nghĩ ra được điểm độc đáo nào của Đại học Thủy Lợi. 38 người còn lại, một số người cân nhắc khá lâu, cũng chỉ chỉ ra được 8 thuộc tính và lợi ích của Đại học Thủy Lợi mà họ cho rằng có tính độc đáo so với các trường khác, trong đó nổi bật nhất là việc Đại học Thủy Lợi “đào tạo tất cả chuyên ngành về thủy lợi” (38,3%). Tương tự như những liên tưởng có ý nghĩa, không có liên tưởng hình tượng nào của Đại học Thủy Lợi được cho là có tính độc đáo. Bảng 7. Những liên tưởng độc đáo thu thập được qua phỏng vấn Liên tưởng Đào tạo tất cả các chuyên ngành về thủy lợi Khuôn viên trường rộng, đẹp, nhiều cây xanh Ký túc xá sinh viên hiện đại Sinh viên theo dõi quá trình học tập qua Internet Có chương trình đào tạo hoàn toàn bằng tiếng Anh Dễ xin việc đúng ngành học Được học hai ngành song song Nhiều cơ hội xin học bổng ở nước ngoài

% trên số người trả lời Hiệu năng Hình tượng 38,3 15 10 10 8,3 6,7 5 5

Bởi vì tài sản thương hiệu chỉ xuất hiện khi thương hiệu được gắn liền với những liên tưởng mạnh đồng thời có ý nghĩa và nhất thiết mang tính độc đáo, từ danh sách những liên tưởng thu thâp được qua quá trình phỏng vấn ở trên, những liên tưởng độc đáo, có ý nghĩa nhất và mạnh nhất được tập hợp lại và lập ra một danh sách gồm 20 liên tưởng 40

nổi bật nhất để điều tra định lượng ở giai đoạn sau. Riêng tiêu chí tính độc đáo thì chỉ điều tra đối với 8 liên tưởng độc đáo đã xác định được ở trên. Bảng 8. Danh sách 20 liên tưởng được đưa vào phiếu điều tra khảo sát STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20

Liên tưởng Giàu truyền thống Điểm xét tuyển đầu vào không cao Có nhiều ngành học để chọn Đào tạo chuyên về thủy lợi Được học hai ngành song song Có chương trình đào tạo hoàn toàn bằng tiếng Anh Chất lượng đào tạo tốt Thầy cô giảng dạy tâm huyết Khó xin việc tại Hà Nội Dễ xin việc đúng ngành học Ngành nghề vất vả Ký túc xá hiện đại Khuôn viên trường đẹp nhiều cây xanh Điều kiện/cơ sở vật chất học tập tốt Môi trường học tập tốt Hoạt động ngoại khóa sôi nổi Chế độ khuyến khích học tập tốt Nhiều cơ hội xin học bổng ở nước ngoài Liên hệ chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình Sinh viên theo dõi quá trình học tập qua Internet

4.3 Đánh giá một số liên tưởng nổi bật dựa trên ba tiêu chí 4.3.1 Những liên tưởng mạnh gắn với thương hiệu Đại học Thủy Lợi Tổng hợp kết quả từ 227 phiếu trả lời hợp lệ trong giai đoạn khảo đối tượng học sinh cấp III tại Hà Nội cho thấy, những liên tưởng mạnh nhất về Đại học Thủy Lợi đối với đối tượng này là “điều kiện/cơ sở vật chất học tập tốt” (61,5% người đồng ý và hoàn toàn đồng ý), “giàu truyền thống” (61,2%), “khuôn viên trường đẹp nhiều cây xanh” (61,2%). Trong khi đó, những liên tưởng được gắn kết yếu nhất với Đại học Thủy Lợi trong tâm trí của các học sinh cấp III Hà Nội là “nhiều cơ hội xin học bổng cao học nước ngoài” (11,9% người đồng ý), “có chương trình đào tạo hoàn toàn bằng tiếng Anh” 41

(18,2%), “được học hai ngành song song” (21,1%), và “môi trường học tập tốt” (22,1%). Đáng chú ý là liên tưởng “ngành nghề vất vả” được học sinh cấp III Hà Nội gắn kết khá mạnh với thương hiệu Đại học Thủy Lợi khi có tới 59,6% đồng ý và hoàn toàn đồng ý với điều này, trong đó số người hoàn toàn đồng ý chiếm tỷ lệ cao nhất (34,7%) so với tất cả những người có ý kiến khác. Bảng 9. Đánh giá sức mạnh của các liên tưởng thương hiệu ĐHTL Phần trăm trên số người trả lời Liên tưởng

Điều kiện/cơ sở vật chất học tập tốt Giàu truyền thống Khuôn viên trường đẹp nhiều cây xanh Ngành nghề vất vả Đào tạo chuyên về thủy lợi Hoạt động ngoại khóa sôi nổi Liên hệ chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình Chế độ khuyến khích học tập tốt Ký túc xá hiện đại Thầy cô giảng dạy tâm huyết Chất lượng đào tạo tốt Dễ xin việc đúng ngành học Điểm xét tuyển đầu vào không cao Sinh viên theo dõi quá trình học tập qua Internet Khó xin việc tại Hà Nội Có nhiều ngành học để chọn Môi trường học tập tốt Được học hai ngành song song Có chương trình đào tạo hoàn toàn bằng tiếng Anh Nhiều cơ hội xin học bổng ở nước ngoài

hoàn toàn không đồng ý (1)

không đồng ý (2)

trung lập (3)

đồng ý (4)

hoàn toàn đồng ý (5)

Tổng (1) và (2)

Tổng (5) và (6)

15,9

6,2 15,4 9,3 21,8 11,5 15,4

32,3 22,5 29,5 9,3 35,7 15,9

51,3 42,3 37,9 24,9 27,8 33,0

10,2 18,9 23,3 34,7 25,1 19,8

6,2 16,3 9,3 31,1 11,5 31,3

61,5 61,2 61,2 59,6 52,9 52,9

1,3

10,6

36,1

32,6

19,4

11,9

52,0

5,7 9,3 3,1 7,1 6,2 6,2

14,5 9,7 12,4 22,1 24,7 18,1

31,3 34,5 40,7 30,1 31,3 41,0

38,8 24,8 34,1 21,7 28,2 24,7

9,7 21,7 9,7 19,0 9,7 10,1

20,3 19,0 15,5 29,2 30,8 24,2

48,5 46,5 43,8 40,7 37,9 34,8

6,6

61,2

16,3

15,9

6,6

32,2

12,3 37,0 46,5 10,6

18,5 21,6 15,5 29,5

46,7 18,9 15,9 38,8

15,9 18,9 12,8 15,4

6,6 3,5 9,3 5,7

30,8 58,6 61,9 40,1

22,5 22,5 22,1 21,1

23,0

34,1

30,1

11,1

1,8

57,1

12,8

32,7

36,3

19,0

10,6

1,3

69,0

11,9

0,9 9,3

Sử dụng phương pháp kiểm định χ2 để kiểm tra mối quan hệ giữa giới tính của học sinh cấp III với sự đánh giá của họ về những liên tưởng thương hiệu mạnh gắn với Đại học Thủy Lợi, kết quả cho thấy có mối liên hệ giữa giới tính người trả lời và đánh giá của họ với sức mạnh của liên tưởng “môi trường học tập tốt” (χ 2=48,556, df=4, p
View more...

Comments

Copyright ©2017 KUPDF Inc.
SUPPORT KUPDF